Sinh Lý Tuần Hoàn: Sinh Lý Tim

Bài 9.1

SINH LÝ TUẦN HOÀN: SINH LÝ TIM

Mục lục
SINH LÝ TUẦN HOÀN: SINH LÝ TIM
1. SINH LÝ TIM

 MỤC TIÊU

Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:

1. Nêu được các đặc tính sinh lý của cơ tim.

2. Mô tả được chu kỳ hoạt động của tim, những biểu hiện bên ngoài và cơ chế của chu kỳ tim.

3. Trình bày được cơ chế điều hòa hoạt động tim.

Hệ thống tuần hoàn gồm tim và các mạch máu, có chức năng đảm bảo cho máu lưu thông liên tục để thực hiện các chức năng của mình. Nếu ngừng tuần hoàn thì tính mạng sẽ bị đe dọa, ngừng quá 4 phút thì tế bào não bị tổn thương không hồi phục.

Hệ thống tuần hoàn gồm hai vòng là vòng đại tuần hoàn (vòng tuần hoàn lớn) và vòng tiểu tuần hoàn (vòng tuần hoàn nhỏ). Vòng đại tuần hoàn mang máu giàu oxy và các chất dinh dưỡng từ tim trái theo động mạch chủ đến các động mạch, rồi đến các mao mạch, cung cấp oxy và các chất dinh dưỡng cho các tế bào ở mô. Máu từ các mao mạch ở mô tập trung lại thành máu tĩnh mạch, rồi theo các tĩnh mạch lớn dần đổ về tim phải. Vòng tiểu tuần hoàn mang máu tĩnh mạch từ tim phải theo động mạch phổi đến phổi nhận oxy và thải khí carbonic, chuyển thành máu động mạch, rồi theo bốn tĩnh mạch phổi về tim trái.

Trong hệ thống tuần hoàn tim là động lực chính, hút máu từ tĩnh mạch về và bơm máu vào trong động mạch. Động mạch đưa máu từ tim đến mô. Tĩnh mạch dẫn máu từ mô về tim. Mao mạch là những mạch máu nhỏ nối giữa động mạch và tĩnh mạch, là nơi diễn ra quá trình trao đổi chất giữa máu và mô. Mao mạch còn được gọi là vi tuần hoàn.

1. SINH LÝ TIM

Tim có chức năng như một cái bơm, vừa hút vừa đẩy máu trong hệ thống tuần hoàn, nên tim là động lực chính của hệ tuần hoàn. Tim có chức năng đặc biệt quan trọng trong hệ tuần hoàn, do vậy tim cũng có cấu tạo rất đặc biệt, phù hợp với chức năng của mình.

1.1. Đặc điểm cấu trúc – chức năng của tim

1.1.1. Sự phân buồng tim

Tim có cấu tạo là một khối cơ rỗng, có vách ngăn thành hai nửa riêng biệt là tim phải và tim trái. Tim trái chứa máu động mạch, tim phải chứa máu tĩnh mạch.

Mỗi nửa của tim lại chia làm hai buồng là tâm nhĩ và tâm thất. Tâm nhĩ có thành mỏng và có một phần nhỏ lồi ra, gọi là tiểu nhĩ. Chức năng chủ yếu của tâm nhĩ là chứa máu. Tâm thất là khối cơ lớn, có thành dày. Chức năng của tâm thất là đẩy máu vào động mạch.

1.1.2. Các van tim

Giữa tâm nhĩ và tâm thất của mỗi bên tim có van nhĩ – thất (van hai lá ở tim trái và van ba lá ở tim phải). Van nhĩ – thất chỉ cho máu đi theo một chiều từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Khi máu đi qua lỗ van nhĩ – thất thì van mở, lá van áp vào thành thất. Khi thất co, áp suất cao trong buồng tâm thất làm van nhĩ – thất đóng lại, máu không chảy ngược lên tâm nhĩ được, mà bị đẩy ra động mạch.

Giữa tâm thất và động mạch có van tổ chim (còn gọi là van bán nguyệt). Bên trái là van động mạch chủ, chỉ cho máu đi một chiều từ tâm thất trái ra động mạch chủ, rồi ra ngoại vi, đến tất cả các mô để nuôi cơ thể. Bên phải là van động mạch phổi, chỉ cho máu đi từ tâm thất phải ra động mạch phổi, lên phổi trao đổi khí để lấy oxy và thải CO2. Ở thì tâm trương, tim không co bóp, hai tâm thất giãn ra, nhưng máu ở động mạch chủ và động mạch phổi không chảy ngược về thất được vì các van động mạch đóng lại, máu vẫn tiếp tục chảy ra ngoại vi.

1.1.3. Sợi cơ tim (tế bào cơ tim)

Cơ tim gồm rất nhiều sợi cơ, mỗi sợi cơ là một tế bào cơ. Về mặt cấu trúc, tế bào cơ tim vừa giống cơ vân, vừa giống cơ trơn, nhưng cũng có những đặc tính cấu trúc riêng.

Tế bào cơ tim có cấu trúc giống cơ vân là có các sợi tơ cơ actin và myosin nên có khả năng co giãn như cơ vân. Tế bào cơ tim cũng có nhiều nhân giống cơ vân. Đồng thời tế bào cơ tim cũng có cấu trúc giống cơ trơn đó là nhân nằm ở giữa tế bào. Do tế bào cơ tim có cả tính chất của tế bào cơ vân và của tế bào cơ trơn nên cơ tim co bóp khỏe.

Đặc tính cấu trúc riêng của tế bào cơ tim là tuy cơ tim gồm nhiều tế bào cơ và mỗi tế bào cơ đều có màng bao bọc riêng, nhưng dọc hai bên của những tế bào cơ kề nhau có những đoạn màng tế bào hoà vào nhau, tại đây điện trở rất thấp, các ion dễ dàng khuếch tán qua tạo thành những cầu lan truyền hưng phấn từ tế bào này sang tế bào khác, do đó cơ tim hoạt động như một hợp bào. Một hợp bào tức là một tập hợp các tế bào đan vào nhau, khiến cho khi một tế bào hưng phấn, thì điện thế hoạt động tại đây sẽ lan toả ra khắp các tế bào của cơ tim.

Cả quả tim có hai khối hợp bào là hợp bào nhĩ (bao gồm cả nhĩ phải và nhĩ trái) và hợp bào thất (bao gồm cả thất phải và thất trái). Hai khối hợp bào này ngăn cách nhau bởi vòng mô xơ bao quanh lỗ van nhĩ – thất.

Cơ tim còn có đặc điểm là trong tế bào cơ tim có chứa nhiều glycogen và nhu cầu về oxy của tế bào cơ tim cao hơn những tế bào khác. Đặc điểm này cho thấy nhu cầu về năng lượng của cơ tim rất lớn do cơ tim hoạt động liên tục.

Một đặc điểm cấu trúc nữa của tế bào cơ tim là trên màng tế bào có chủ yếu là kênh calci (còn gọi là kênh calci – natri hay kênh calci chậm) và cũng có kênh natri nhanh.

1.1.4. Hệ thống nút tự động của tim

Hệ thống nút là cấu trúc đặc biệt của tim, có khả năng tự phát ra các xung động và dẫn truyền xung động. Vì vậy hệ thống nút còn được gọi là hệ hưng phấn – dẫn truyền. Hệ thống này bao gồm các tế bào mảnh, có kích thước từ 5 đến 10 µm, có tính hưng phấn cao.

Hệ thống nút của tim bao gồm:

– Nút xoang (còn gọi là nút Keith – Flack hay S – A “Sinus – Atrium”). Nút xoang nằm ở tâm nhĩ phải, chỗ tĩnh mạch chủ trên đổ vào tâm nhĩ phải. Nút xoang nhận sự chi phối của các sợi thần kinh thuộc hệ giao cảm và phó giao cảm (dây thần kinh số X).

– Nút nhĩ – thất (còn gọi là nút Tawara hay nút A – V “Atrium – Ventricle”). Nút nhĩ – thất nằm ở cơ tâm nhĩ phải, cạnh lỗ xoang tĩnh mạch vành đổ vào tâm nhĩ phải. Nút nhĩ – thất nhận sự chi phối thần kinh của hệ giao cảm và dây X.

– Bó His (hay bó A – V). Bó His truyền xung động từ nhĩ đến thất, đi từ nút nhĩ – thất tới vách liên thất thì chia làm hai nhánh là nhánh phải và nhánh trái, chạy bên dưới nội tâm mạc tới hai tâm thất. Đến tâm thất chúng chia thành các nhánh nhỏ chạy giữa các sợi cơ tim tạo thành mạng lưới Purkinje. Bó His chỉ nhận các sợi của hệ thần kinh giao cảm (hình 9.1).

Hệ thống nút tự động của tim

1.2. Các đặc tính sinh lý của cơ tim

Cơ tim có chức năng co tự động, không theo ý muốn và co nhịp nhàng để thực hiện chức năng bơm máu. Để hoàn thành chức năng này cơ tim có bốn đặc tính sinh lý là tính hưng phấn, tính trơ có chu kỳ, tính nhịp điệu và tính dẫn truyền.

1.2.1. Tính hưng phấn

Tính hưng phấn là khả năng đáp ứng với kích thích của cơ tim, thể hiện bằng cơ tim phát sinh điện thế hoạt động, điện thế này làm co cơ tim.

1.2.1.1. Đặc điểm về khả năng đáp ứng với kích thích của cơ tim

Cơ tim đáp ứng với kích thích bằng co cơ như cơ vân, nhưng có đặc tính riêng là đáp ứng theo quy luật “tất cả hoặc không”.

Thí nghiệm: kích thích một mảnh cơ tim ếch bằng dòng điện cảm ứng với cường độ tăng dần và ghi đồ thị co cơ. Kết quả cho thấy: với những cường độ kích thích dưới ngưỡng, cơ tim không đáp ứng (không co). Với những cường độ kích thích bằng hoặc trên ngưỡng, cơ tim đều đáp ứng bằng co cơ tối đa. Như vậy cơ tim đáp ứng theo quy luật “tất cả hoặc không” của Ranvier. Có hiện tượng này là do cơ tim được cấu tạo là một hợp bào, có các cầu dẫn truyền hưng phấn giữa các tế bào, nên hoạt động của cơ tim như là một tế bào độc nhất. Khi kích thích có cường độ tới ngưỡng thì toàn bộ các sợi cơ tim hưng phấn, làm cho tất cả các sợi cơ tim đều co. Do vậy khi cơ tim đã co là co tối đa ngay.

Tính hưng phấn của cơ tim khác cơ vẫn là: cơ vân gồm nhiều sợi cơ riêng biệt, giữa các tế bào cơ không có cầu dẫn truyền hưng phấn, nên khi bị kích thích thì tuỳ theo cường độ kích thích mạnh hay yếu mà số sợi cơ tham gia co nhiều hay ít. Khi cường độ kích thích tăng dần thì số sợi cơ tham gia đáp ứng cũng tăng dần, làm cho biên độ co cơ cũng tăng lên cho đến khi toàn bộ các sợi cơ tham gia đáp ứng thì cơ co mạnh nhất (hình 9.2).

Đường ghi co cơ tim và co cơ vân theo cường độ kích thích

1.2.1.2. Đặc điểm về điện thế hoạt động của cơ tim

Bình thường điện thế màng lúc nghỉ (điện thế nghỉ) của cơ tim khoảng -90mV. Khi xuất hiện điện thế hoạt động, ở giai đoạn khử cực điện thế màng có thể tăng lên đến + 20 mV và trị số điện thế đỉnh + 20 mV còn được duy trì trong khoảng 0,2 đến 0,3 giây chứ không giảm xuống ngay lập tức. Hiện tượng kéo dài điện thế đỉnh ở cơ tim được gọi là cao nguyên (plateau).

Điện thế hoạt động của cơ tim có giai đoạn cao nguyên do hai nguyên nhân là ở màng tế bào cơ tim có kênh chậm (kênh calci chậm) và màng tế bào cơ tim giảm tính thấm với ion kali.

– Nguyên nhân do có kênh calci chậm ở màng tế bào cơ tim: ở màng tế bào cơ vân có nhiều kênh natri là kênh nhanh. Khi xuất hiện điện thế hoạt động thì các kênh nhanh này chỉ mở trong khoảng vài phần vạn giây, rồi đột ngột đóng ngay, tiếp sau đó là giai đoạn tái cực xảy ra cũng rất nhanh. Ở màng tế bào cơ tim có chủ yếu là kênh chậm (kênh calci chậm hay kênh calci – natri) và cũng có kênh natri nhanh. Thời gian mở kênh calci chậm, kéo dài tới vài phần mười giây, làm cho một lượng lớn ion calci và natri đi vào trong tế bào cơ tim, duy trì lâu dài trạng thái khử cực, tạo đường cao nguyên của điện thế hoạt động.

– Nguyên nhân thứ hai là màng tế bào cơ tim giảm tính thấm với ion kali. Khi xuất hiện điện thế hoạt động, tính thấm của màng với ion kali giảm xuống, chỉ bằng khoảng 1/5 lúc bình thường, vì vậy ion kali không ra khỏi tế bào, không tạo được giai đoạn tái cực, làm cho trạng thái khử cực kéo dài, góp phần tạo đường cao nguyên của điện thế hoạt động.

Đặc điểm giảm tính thấm của màng với ion kali khi xuất hiện điện thế hoạt động chỉ có ở cơ tim mà không có ở cơ vân.

1.2.2. Tính trợ có chu kỳ

Tính trơ có chu kỳ là tính không đáp ứng với kích thích có chu kỳ của cơ tim.

Thí nghiệm: ghi đồ thị hoạt động của tim ếch, ta thấy tim ếch hoạt động có chu kỳ, gồm các giai đoạn co và giãn.

Nếu kích thích vào giai đoạn tim đang co (tâm thu) dù cường độ kích thích có cao trên ngưỡng thì cơ tim cũng không co thêm nữa. Điều này chứng tỏ rằng khi tim đang co cơ tim không đáp ứng với kích thích, gọi là giai đoạn trơ của tim.

Khi kích thích vào lúc cơ tim đang giãn thì tim đáp ứng bằng một co bóp phụ gọi là ngoại tâm thu. Sau ngoại tâm thu tim giãn ra và nghỉ kéo dài, gọi là nghỉ bù. Tim nghỉ bù là do xung động từ nút xoang tới tâm thất rơi vào giai đoạn trơ của co bóp phụ, nên co bóp bình thường không xảy ra, cho đến khi có xung động tiếp theo của nút xoang thì lại xuất hiện co bóp bình thường. Tổng thời gian của chu kỳ ngoại tâm thu và chu kỳ tiếp sau đó bằng tổng thời gian của hai chu kỳ tim bình thường.

Như vậy, trong giai đoạn tâm thu tim có tính trơ, mà tim hoạt động có tính chu kỳ nên giai đoạn trơ cũng lặp đi lặp lại một cách đều đặn, do đó tim có tính trơ có chu kỳ.

Nhờ có tính trơ có chu kỳ mà khi tim chịu những kích thích liên tiếp, tim không bị co cứng, phù hợp với chức năng bơm máu của tim (hình 9.3).

Thời gian trơ của cơ tâm thất khoảng 0,25 đến 0,30 giây. Thời gian trở của cơ tâm nhĩ ngắn hơn, chỉ khoảng 0,15 giây.

Đường ghi hoạt động của tim với nhịp ngoại tâm thu và giai đoạn nghỉ bù

1.2.3. Tỉnh nhịp điệu của cơ tim

Tính nhịp điệu là khả năng tự phát ra các xung động nhịp nhàng cho tim hoạt động, được thực hiện bởi hệ thống nút tự động. Nhờ có tính nhịp điệu mà khi tách tim khỏi cơ thể nhưng vẫn nuôi dưỡng đầy đủ thì tim vẫn co bóp nhịp nhàng. Bình thường tim đập theo xung động phát ra từ nút xoang.

Như đã trình bày ở phần đặc điểm cấu trúc – chức năng của tim, hệ thống nút tự động bao gồm những tế bào có tính hưng phấn cao, cụ thể là bình thường điện thế nghỉ của nút xoang ít âm hơn của sợi cơ tâm thất, tức là khoảng -60 mV so với -90 mV. Sau lần tim đập, ion natri rò rỉ vào trong tế bào nút xoang, làm tăng dần điện thế màng từ -60 mV lên tới khoảng 40 mV, đó là mức ngưỡng tạo điện thế hoạt động. Như vậy, do sự rò rỉ ion natri vào tế bào nút xoang làm nút này tự hưng phấn và hưng phấn phát sinh một cách đều đặn, nhịp nhàng.

Trong thực nghiệm, khi tách rời từng phần của hệ thống nút tự động cho thấy mỗi phần đều có khả năng phát xung động.

Bình thường nút xoang phát xung động với tần số 70 – 80 xung/phút. Tần số phát xung tối đa của nút xoang có thể lên tới 120 – 150 xung/phút. Trong cơ thể bình thường nhịp đập của tim theo tần số phát xung của nút xoang, tức là khoảng 70-80 lần/phút.

Ngoài nút xoang có khả năng tự phát xung động, các phần khác của hệ thống nút cũng có khả năng tự phát xung động như: nút nhĩ – thất có thể phát xung động với tần số 40 – 60 xung/phút. Bó His phát xung động với tần số 30 – 40 xung/phút. Mạng Purkinje phát xung động với tần số 15 – 40 xung/phút. Khi tim đập theo nhịp phát xung của các phần này gọi là dẫn nhịp lạc chỗ.

1.2.4. Tính dẫn truyền của cơ tim

Tính dẫn truyền là khả năng dẫn truyền xung động của sợi cơ tim và hệ thống nút. Cơ tim và hệ thống nút có khả năng dẫn truyền xung động với vận tốc khác nhau. Ví dụ sợi cơ tâm nhĩ và tâm thất dẫn truyền xung động với tốc độ khoảng 0,3 đến 0,5 mét/giây, tức là chỉ bằng 1/10 tốc độ ở sợi cơ vân và 1/250 ở sợi thần kinh to. Tốc độ dẫn truyền xung động ở nút nhĩ – thất là 0,2 mét/giây và ở mạng purkinje là từ 1,5 đến 4 mét/giây.

Nhờ tính hưng phấn, tính nhịp điệu và tính dẫn truyền xung động mà tim dù ở trong cơ thể hay tách khỏi cơ thể và được nuôi dưỡng đầy đủ thì tim vẫn tự co bóp đều đặn, nhịp nhàng. Nhờ tính trợ có chu kỳ mà tim không bị co cứng khi chịu các kích thích liên tục.

1.3. Chu kỳ hoạt động của tim

Hoạt động của tim gồm nhiều giai đoạn lặp đi lặp lại một cách đều đặn nhịp nhàng, theo một trình tự nhất định, tạo nên chu kỳ hoạt động của tim, hay còn gọi là chu chuyển tim (hình 9.4).

1.3.1. Thí nghiệm chứng minh hoạt động có chu kỳ của tim

Năm 1861 Chauveau và Marey đã làm thực nghiệm trên ngựa, bằng cách luồn hai ống thông vào tĩnh mạch cảnh qua tĩnh mạch chủ trên vào tim. Trong đó một ống thông được luồn vào tâm nhĩ phải, còn ống kia được luồn xuống tâm thất phải. Đầu ống thông nằm trong tim có gắn một quả bóng nhỏ chịu tác động áp suất trong các buồng tim và truyền sự thay đổi áp suất đó ra đầu ngoài của ống thông. Đầu ngoài của ống thông được nối với trống Marey có gắn bút ghi để ghi lại sự biến đổi áp suất trong các buồng tim khi nghiên cứu hoạt động của tim. Đồ thị ghi được gọi là tâm động đồ. Phân tích tâm động đồ cho ta thấy các buồng tim co giãn theo một trình tự nhất định, bắt đầu là tâm nhĩ co gọi là tâm nhĩ thu, tiếp theo đó là tâm thất có gọi là tâm thất thu, sau đó là thời gian cả tâm nhĩ và tâm thất đều giãn gọi là tâm trương toàn bộ. Trình tự hoạt động này cứ lặp đi lặp lại, mỗi vòng là một chu kỳ hoạt động của tim.

1.3.2. Các giai đoạn của chu kỳ tim

Người bình thường có tần số tim là 75 nhịp/phút thì thời gian của một chu kỳ tim là 0,8 giây, gồm có ba giai đoạn chính là nhĩ thu, thất thu và tâm trương toàn bộ.

– Giai đoạn tâm nhĩ thu: là giai đoạn tâm nhĩ co lại. Khi cơ tâm nhĩ co làm cho áp suất trong tâm nhĩ tăng lên, cao hơn trong tâm thất. Lúc này van nhĩ – thất đang mở, máu được đẩy từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Tâm nhĩ thu có tác dụng đẩy nốt lượng máu còn lại từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Lượng máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất trong lúc tâm nhĩ thu chiếm khoảng 35% tổng lượng máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất trong một chu kỳ tim. Thời gian tâm nhĩ thu là 0,10 giây. Sau giai đoạn tâm nhĩ thu, tâm nhĩ giãn ra trong suốt thời gian còn lại của chu kỳ tim (0,7 giây). Máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất ở giai đoạn này làm cho áp suất tâm thất cũng tăng lên trong thời gian tâm nhĩ thu.

– Giai đoạn tâm thất thu: là giai đoạn tâm thất co lại, bắt đầu sau giai đoạn tâm nhĩ thu. Thời gian tâm thất thu là 0,30 giây, được chia thành hai thời kỳ là:

+ Thời kỳ tăng áp: thời kỳ này bắt đầu bằng cơ tâm thất co, áp suất trong tâm thất tăng lên cao hơn áp suất trong tâm nhĩ, làm cho van nhĩ – thất đóng lại. Tuy vậy trong lúc này áp suất trong tâm thất vẫn thấp hơn áp suất trong động mạch nên van tổ chim (van động mạch) chưa mở ra, do đó máu trong tâm thất không thoát đi đâu được (thể tích máu trong tâm thất không thay đổi, do vậy thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ co đẳng tích, hay co đẳng trường là vì chiều dài sợi cơ tâm thất không thay đổi). Ở thời kỳ này áp suất máu trong tâm thất tăng lên rất nhanh. Thời gian của thời kỳ tăng áp rất ngắn, khoảng 0,05 giây.

Trong thời kỳ tăng áp, áp suất trong tâm thất tăng lên làm cho van nhĩ – thất đóng lại và lồi lên về phía tâm nhĩ, do vậy áp suất trong tâm nhĩ lúc này cũng tăng lên.

+ Thời kỳ tống máu: cuối thời kỳ tăng áp, áp suất trong tâm thất trở nên cao hơn áp suất trong động mạch chủ và động mạch phổi, làm van tổ chim mở ra, máu được phun vào động mạch. Lúc này tâm thất vẫn tiếp tục co bóp, thể tích tâm thất tiếp tục nhỏ lại, áp suất trong tâm thất vẫn ở mức cao, máu tiếp tục được tống vào động mạch.

Thời gian của thời kỳ tống máu là 0,25 giây. Thời kỳ tống máu được chia thành hai thì:

* Thì tống máu nhanh là thì bắt đầu của thời kỳ tống máu, thời gian dài khoảng 0,09 giây. Trong thì này có khoảng 4/5 lượng máu của tâm thất được tống vào động mạch.

* Thì tống máu chậm là thì tiếp theo của thì tống máu nhanh, thời gian dài hơn, khoảng 0,16 giây. Ở thì này 1/5 lượng máu còn lại của tâm thất được tống vào động mạch.

Trong lúc nghỉ ngơi, mỗi lần tâm thất thu, mỗi một tâm thất (tâm thất phải hoặc tâm thất trái) tống vào động mạch khoảng 60 – 70 ml máu, thể tích máu này được gọi là thể tích tâm thu. Tuy thành của tâm thất trái dày gấp ba lần thành của tâm thất phải và lực co của tâm thất trái mạnh hơn lực co của tâm thất phải, nhưng do sức cản của vòng tuần hoàn nhỏ thấp hơn sức cản của vòng tuần hoàn lớn, nên mỗi lần co bóp tâm thất trái và tâm thất phải đều tổng vào động mạch chủ và động mạch phổi một thể tích máu xấp xỉ bằng nhau.

Máu được tống vào trong động mạch lại tạo ra một phản lực làm cho sàn van nhĩ – thất hạ xuống, tâm nhĩ giãn ra và áp suất trong tâm nhĩ giảm xuống. Sau khi hết phản lực, sàn van nhĩ – thất được nâng lên, làm cho áp suất trong tâm nhĩ lại tăng lên một chút.

– Giai đoạn tâm trương toàn bộ.

Sau khi tâm thất co, tâm thất bắt đầu giãn ra, đó là giai đoạn tâm trương toàn bộ (trong lúc đó tâm nhĩ vẫn đang giãn). Khi cơ tâm thất giãn ra thì áp suất trong tâm thất bắt đầu giảm xuống. Khi áp suất trong tâm thất trở nên thấp hơn áp suất trong động mạch chủ và động mạch phổi thì van tổ chim đóng lại. Tâm thất tiếp tục giãn, đó là thời kỳ giãn đẳng tích (thể tích tim không thay đổi, vì ở giai đoạn này van tổ chim đã đóng mà van nhĩ – thất lại chưa mở nên máu không thoát đi đâu được) áp suất trong tâm thất tiếp tục giảm nhanh cho tới khi áp suất trong tâm thất thấp hơn áp suất trong tâm nhĩ thì van nhĩ – thất bắt đầu mở ra, kết thúc thời kỳ giãn đẳng tích, máu được hút từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Máu được hút từ tâm nhĩ xuống tâm thất theo hai thì là: sau khi van nhĩ thất mở ra, máu được hút xuống tâm thất nhanh, đó là thì đầy thất nhanh, sau đó máu xuống tâm thất chậm dần, đó là thì đầy thất chậm.

Giai đoạn tâm trương toàn bộ kéo dài 0,40 giây, đó là thời gian để cho máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Máu xuống tâm thất trong giai đoạn này chiếm khoảng 65% tổng lượng máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất trong một chu kỳ tim.

Khi van nhĩ – thất mở ra thì máu được hút từ tâm nhĩ xuống tâm thất, do đó áp suất trong tâm nhĩ ở giai đoạn này cũng giảm theo áp suất trong tâm thất.

Kết thúc giai đoạn tâm trương toàn bộ, tâm thất tiếp tục giãn thêm 0,10 giây nữa trong khi tâm nhĩ bắt đầu co, mở đầu cho chu kỳ tim tiếp theo.

Trên đây là ba giai đoạn của chu kỳ tim được trình bày lần lượt các hiện tượng theo logic thời gian, nên còn được gọi là chu kỳ tim sinh lý học.

Trong thực hành lâm sàng thì nhĩ thu không được coi là một giai đoạn, mà chỉ là một phần nhỏ, phần cuối và không quan trọng của giai đoạn tâm trương là giai đoạn lấy máu về tim, vì khi nhĩ thu nhĩ không bơm toàn bộ máu về thất mà chỉ “đẩy nốt” 35% lượng máu từ nhĩ xuống thất. Vì vậy, ở lâm sàng chu kỳ tim thường được chia thành hai giai đoạn là tâm trương (diastole) tâm thất giãn, tim lấy máu vào thất và giai đoạn tâm thu (systole) tâm thất co, tim bơm máu vào động mạch.

1.3.3. Cơ chế của chu kỳ tim

Cơ chế của chu kỳ tim là cơ chế chuyển điện thế hoạt động (tức xung động thần kinh) thành sự co cơ tim.

Cứ một khoảng thời gian nhất định nút xoang phát ra điện thế hoạt động, điện thế này lan toả nhanh ra khắp hai tâm nhĩ làm cho cơ tâm nhĩ co lại (tâm nhĩ thu). Điện thế hoạt động tiếp tục lan qua đường liên nhĩ đến nút nhĩ – thất. Đến nút nhĩ – thất điện thế lan truyền chậm lại khoảng 1/10 giây trước khi qua bó His để xuống thất. Sự dẫn truyền chậm lại này có ý nghĩa chức năng là đợi cho nhĩ thu xong, hoàn tất việc đẩy máu từ nhĩ xuống thất, thì mới đến lượt thất co để bơm máu ra động mạch. Từ nút nhĩ – thất, điện thế hoạt động tiếp tục lan truyền đến bó His, rồi toả ra theo mạng Purkinje, lan đến cơ tâm thất làm cho cơ tâm thất co lại (tâm thất thủ). Sau đó điện thế hoạt động tắt, cơ tâm thất lại giãn ra thụ động trong khi cơ tâm nhĩ đang giãn, đó là giai đoạn tâm trương toàn bộ, cho đến khi nút xoang lại phát ra điện thế hoạt động tiếp theo khởi động cho một chu kỳ mới.

Chu kỳ hoạt động của tim

Cơ chế chuyển điện thế hoạt động thành sự co cơ tim về cơ bản cũng giống sự co cơ vân. Đó là khi điện thế hoạt động lan truyền đến màng cơ tim thì nó toả ra khắp tế bào (sợi) cơ tim, làm giải phóng nhiều ion calci từ mạng nội cơ tương vào cơ tương. Chỉ trong vài phần nghìn giây ion calci đã khuếch tán vào các sợi tơ cơ actin và myosin, làm các sợi này trượt vào nhau gây co cơ.

Điểm khác về cơ chế co cơ tim và co cơ vân là ở chỗ cơ tim có mạng nội cơ tương kém phát triển so với cơ vân nên có ít ion calci. Vì vậy cơ tim cần lấy thêm calci từ các ống T, là loại ống có đường kính to gấp 5 lần ống T ở cơ vân, nên thể tích chứa ion calci ở đây lớn gấp 25 lần so với ở ống T của cơ vân, có như vậy mới đủ cung cấp ion calci theo nhu cầu của cơ tim. Lực co cơ tim phụ thuộc phần lớn vào nồng độ ion calci ở dịch ngoại bào vì ống T thông với khoảng kẽ bên ngoài sợi cơ.

1.4. Lưu lượng và công của tim

1.4.1. Lưu lượng tim

– Thể tích tâm thu: thể tích tâm thu được ký hiệu là Qs, là số mililit (ml) máu do tim đẩy vào động mạch trong một lần co bóp, vì vậy thể tích tâm thu còn được gọi là thể tích nhát bóp. Bình thường, lúc nghỉ ngơi, thể tích tâm thu khoảng 60-70 ml. Làm siêu âm tim có thể biết được thể tích máu trong tâm thất trước khi tâm thất thu (gọi là thể tích cuối tâm trương), ví dụ là 110 ml. Sau khi tâm thất thu, lượng máu còn lại trong tâm thất khoảng 40 ml (gọi là thể tích cuối tâm thu). Như vậy thể tích tâm thu là hiệu hai đại lượng trên và bằng: 110 – 40 = 70 ml. Tính tỷ lệ thể tích tâm thu trên lượng máu chứa trong thất, tức là thể tích cuối tâm trương, ta có phân số tống máu, là: 70/110=60%. Khi vận cơ mạnh, thể tích cuối tâm trương có thể lên tới 150 ml – 180ml, thể tích cuối tâm thu chỉ còn khoảng 10 ml – 20 ml, do đó thể tích tâm thu có thể lên tới 140 – 160 ml, tức là gấp 2 – 3 lần lúc nghỉ ngơi.

– Lưu lượng tim: lưu lượng tim là lượng máu tim bơm vào động mạch trong thời gian một phút. Lưu lượng tim trái bằng (xấp xỉ bằng) lưu lượng tim phải. Lưu lượng tim thường được ký hiệu là Q và được tính theo công thức sau:

Q = Qs× f

Trong đó: Q là lưu lượng tim

Qs là thể tích tâm thu

f là tần số tim trong 1 phút

Trong lúc nghỉ ngơi, thể tích tâm thu khoảng 60 – 70 ml, tần số tim khoảng 70 – 80 nhịp/phút, thì lưu lượng tim có thể bằng: Q = 60 ml x 75 nhịp/phút = 4.500 ml/phút (dao động trong khoảng 4 – 5 lít/phút).

Lưu lượng tim còn có thể được tính theo phương pháp Fick là:

Q = Vo2/Vo2a – Vo2v

Trong đó:

Vo2 là thể tích oxy tiêu thụ trong 1 phút (ml/phút).

Vo2a là thể tích oxy trong máu động mạch (ml/lít).

Vo2v là thể tích oxy trong máu tĩnh mạch (ml/lít).

1.4.2. Công của tim

Công của tim là tổng năng lượng tim sử dụng trong một phút. Tim sử dụng năng lượng dưới hai dạng. Dạng thứ nhất gọi là dạng công ngoài, chiếm phần lớn, là công dùng để chuyển máu từ tĩnh mạch có áp suất thấp đến động mạch có áp suất cao. Dạng công ngoài còn được gọi là công thể tích – áp suất. Dạng công thứ hai chiếm tỷ lệ nhỏ hơn, dùng để tạo tốc độ chuyển máu qua các lỗ van động mạch, đó là năng lượng động học của dòng máu, gọi là công động học.

– Công ngoài (công thể tích – áp suất):

Công ngoài được tính theo công thức:

A = Q x ΔP

Trong đó: A là công, đơn vị là erg; Q là lưu lượng tim, đơn vị là ml/phút; ΔP là hiệu của áp suất tâm thu trung bình thất trái trừ đi áp suất tâm trương trung bình thất trái, đơn vị là dyn/cm2.

Có thể tính công của một lần tâm thu theo công thức:

A = Qs x ΔP

Trong đó: Qs là thể tích tâm thu.

Công ngoài (công thể tích – áp suất) của thất phải thường bằng 1/6 công của thất trái.

– Công động học của dòng máu:

Đó là công thực hiện động năng của dòng máu, được tính theo công thức:

Động năng = mv2/2

Trong đó:

m là khối lượng máu (gam).

v là vận tốc của dòng máu (cm/giây).

Đơn vị của công là erg.

Bình thường công để tạo động năng dòng máu chỉ bằng khoảng 1% tổng số công do thất thực hiện, nên có thể không cần tính đến công này, chỉ cần tính công ngoài (công thể tích – áp suất) để đánh giá tổng số công do cơ tâm thất thực hiện. Trong một số trường hợp bệnh lý như hẹp van động mạch, máu chảy qua lỗ van chít hẹp với vận tốc rất cao, nên v rất lớn, khi đó động năng rất lớn, có thể chiếm tới 50% tổng số công của tim. Trong trường hợp này khi tính công của tim phải kể cả công động học.

1.5. Những biểu hiện bên ngoài của chu kỳ tim và một số kỹ thuật thăm dò chức năng tim

1.5.1. Mỏm tim đập

Khi ta nhìn hoặc sờ vào thành lồng ngực phía trước, bên trái, ở khoang liên sườn V trên đường giữa đòn trái, ta thấy tại đó nhô lên, hạ xuống trong mỗi chu kỳ tim, đó là mỏm tim đập. Có hiện tượng này là do lúc cơ tim đang co, cơ tim rắn lại và đưa mỏm tim ra phía trước, đẩy vào thành ngực, làm cho thành ngực ở đó nhô lên, khi cơ tim giãn ra lồng ngực tại vị trí đó lại hạ xuống. Quan sát mỏm tim đập cho ta biết vị trí của mỏm tim trên thành ngực để tiến hành các thăm khám về tim và có thể đếm được nhịp tim.

1.5.2. Tiếng tim và tâm thanh đồ
1.5.2.1. Tiếng tim

Dùng ống nghe hay áp tai vào thành ngực phía trước bên trái, ta thường nghe thấy hai tiếng tim là T1 và T2, thỉnh thoảng còn nghe thấy tiếng thứ ba (T3) và thứ tư (T4).

– Tiếng tim thứ nhất (T1) nghe thấy trầm và dài, nghe rõ ở vùng mỏm tim, là tiếng mở đầu của thời kỳ tâm thất thu

Nguyên nhân gây ra tiếng tim thứ nhất chủ yếu là do đóng các van nhĩ – thất. Tiếng T1 có hai thành phần chính. Thành phần thứ nhất là do đóng van hai lá, nghe rõ nhất ở vùng mỏm tim (thất trái). Thành phần thứ hai là do đóng van ba lá, nghe rõ ở phần dưới bờ ức trái.

Ngoài nguyên nhân chủ yếu là do đóng các van nhĩ – thất, tiếng T1 còn do mở các van bán nguyệt (van tổ chim) và dòng máu phun vào động mạch..

Trong hai thành phần chính, thành phần do đóng van hai lá xảy ra trước. Trong nghẽn nhánh phải hoàn toàn, sự dẫn truyền hưng phấn đến tim phải đã muộn lại càng muộn thêm, làm cho hai thành phần càng cách xa nhau thêm nên sẽ nghe thấy tiếng T1 tách đôi. Ngược lại trong nghẽn nhánh trái, thành phần van hai lá bị muộn lại, làm cho hai thành phần sát lại gần nhau, thậm chí có thể hoà vào nhau thành một tiếng duy nhất.

– Tiếng tim thứ hai (T2) nghe thanh và ngắn, nghe rõ ở khoang liên sườn II, cạnh hai bên xương ức (là ổ van động mạch chủ và ổ van động mạch phổi). Tiếng T2 là tiếng mở đầu cho thời kỳ tâm thất trương.

Nguyên nhân gây ra tiếng tim thứ hai là do đóng các van tổ chim. Như vậy tiếng T2 cũng có hai thành phần chính. Thành phần thứ nhất là đóng van động mạch chủ, xảy ra trước một chút. Thành phần thứ hai là đóng van động mạch phổi, xảy ra sau thành phần thứ nhất, do các hiện tượng hoạt động của tim trái xảy ra trước một chút so với tim phải.

Như vậy, tiếng T2 bình thường cũng có hiện tượng tách đôi một chút, nhưng mức độ tách đôi tiếng T2 thay đổi theo các thì của hô hấp: khi hít vào mức độ tách đôi tăng lên, ở thì thở ra gần như không tách đôi. Trong bệnh lý có ba trường hợp bất thường của tách đôi T2. Đó là T2 không tách đôi, gặp ở người già, ở người có cao áp động mạch phổi. Trường hợp thứ hai là T2 liên tục tách đôi, gặp trong nghẽn nhánh phải hoặc ở bệnh nhân bị hở van hai lá nên máu phụt ngược qua lỗ van hai lá, hoặc ở người bị thông vách liên nhĩ. Trường hợp thứ ba là T2 tách đôi ngược, gặp trong nghẽn nhánh trái hoàn toàn…

Khoảng thời gian giữa tiếng T1 và T2 là khoảng im lặng ngắn (là lúc tâm thất thu), khoảng thời gian giữa tiếng T2 và T1 của chu kỳ sau là khoảng im lặng dài (là lúc tâm thất trương).

– Tiếng tim thứ ba (T3) và tiếng tim thứ tư (T4): Tiếng T3 và T4 được tạo ra khi buồng tâm thất hứng máu trong giai đoạn tâm trương. Tiếng T3 là do đột ngột ngừng căng thất lúc tâm trương, làm máu dội mạnh đập vào thành tâm thất. Tiếng T4 là do đột ngột giãn thất lúc tiền tâm thu (lúc nhĩ co).

Ở trẻ em và người trẻ tuổi thường có T3 bình thường (T3 sinh lý), nếu hít vào sâu và nín thở sẽ không nghe thấy nữa nhưng tiếng T4 thì không bình thường.

Tiếng T3 và T4 là các tiếng có tần số thấp, nghe thấy ở tim trái hoặc tim phải.

Tiếng tim chỉ liên quan đến hoạt động của tâm thất. Tiếng T1 thể hiện bắt đầu tâm thất thu. Tiếng T2 thể hiện kết thúc giai đoạn tâm thất thu và mở đầu tâm thất trương.

Trên lâm sàng người ta nhận biết chu kỳ tim bằng tiếng tim, như vậy chu kỳ tim trên lâm sàng không cho biết hoạt động của tâm nhĩ mà chỉ cho biết hoạt động của tâm thất.

Khi van tim bị tổn thương, van không đóng kín hay bị hẹp, huyết động bị rối loạn, tạo ra những tiếng tim bệnh lý như tiếng thổi, tiếng rung. Nếu nghe thấy những tiếng bất thường trong khoảng im lặng ngắn là tiếng thổi tâm thu, còn nếu nghe thấy những tiếng bất thường trong khoảng im lặng dài là tiếng thổi tâm trương hoặc tiếng rung tâm trương.

1.5.2.2. Tâm thanh đồ

Kỹ thuật ghi tiếng tim (phonocardiography) cung cấp các thông tin về âm thanh do tim phát ra. Đồ thị ghi lại các tiếng tim gọi là tâm thanh đồ (phonocardiogram). Nhìn vào tâm thanh đồ có thể xác định được thời điểm bắt đầu và kết thúc từng tiếng tim, qua đó có thể phân tích, đối chiếu, theo dõi sự diễn biến của tiếng tim trong quá trình bệnh lý hoặc quá trình rèn luyện thể lực.

– Cơ sở vật lý của kỹ thuật ghi tiếng tim:

Tiếng động nói chung bao gồm âm và tiếng ồn. Âm là dao động đơn thuần, có thể ghi thành đồ thị hình sin có chu kỳ đều đặn với tần số và biên độ xác định. Sóng âm có biên độ cao thì tiếng trầm, tần số cao thì tiếng thanh. Còn tiếng ồn là pha tạp nhiều kiểu dao động.

Tiếng tim không phải là một âm đơn thuần, nhưng tâm thanh đồ cho phép phân tích tiếng tim ra nhiều thành phần, mỗi thành phần là một loại rung động có tần số và biên độ khá đặc trưng.

Trong môi trường tự nhiên âm có tần số từ dưới 10 Hz đến hàng vạn Hz (Hz là ký hiệu của Hertz, 1 Hz = 1chu kỳ/giây). Tai người có thể nghe được giải tần số từ 16 Hz đến 20.000 Hz, nhưng cảm thụ tối ưu ở quãng 50 Hz đến 1.000 – 4.000 Hz. Những âm có tần số trên 20.000 Hz tai người không nghe thấy được, gọi là siêu âm.

Các tiếng tim có tần số từ 40 Hz đến 600 – 700 Hz là trong phạm vi tai người nghe được. Các dao động âm của tiếng tim ngoài phạm vi đó thì tai người không nghe thấy được, nhưng trên tâm thanh đồ có thể ghi lại và ta có thể phân tích được.

– Cơ sở sinh lý của kỹ thuật ghi tiếng tim:

Điện thế hoạt động phát sinh từ nút xoang, lan đi làm hoạt hóa hai nửa tim không cùng một lúc, mà hoạt hóa tim trái trước, tim phải sau. Do đó tiếng tim có hai thành phần, một thành phần do tim trái hoạt động xuất hiện trước, một thành phần do tim phải hoạt động xuất hiện sau. Tai ta nghe thường chỉ thấy một tiếng, nhưng trên tâm thanh đồ có hai trùm sóng âm, đó là hình ảnh của sự tách đôi tiếng tim (splitting).

Khi hô hấp ở thì hít vào, áp suất trong lồng ngực giảm xuống máu từ tĩnh mạch về thất nhiều hơn, áp suất cuối tâm trương ở thất phải thấp hơn, thời gian tống máu của thất phải kéo dài hơn, làm cho van động mạch phổi đóng muộn hơn ở thì hít vào so với ở thì thở ra. Vì vậy tiếng đóng van động mạch phổi, vốn đã muộn hơn van động mạch chủ, trong thì hít vào lại càng muộn hơn nữa, làm cho tiếng tim tách đôi rõ hơn. Khi thở ra, các hiện tượng xảy ra ngược lại với khi hít vào.

Tất cả các hoạt động làm ảnh hưởng đến lưu lượng máu về tim (nghiệm pháp Valsalva là đóng thanh môn và thở ra thật mạnh làm tăng cao áp suất trong lồng ngực, cản trở máu về tim; các động tác ngồi dậy, đứng lên, nắm chặt tay… làm thay đổi lượng máu về tim) đều ảnh hưởng đến thời gian xuất hiện và tính chất của tiếng tim. Đây là cơ sở sinh lý học của một số nghiệm pháp thăm dò tiếng tim.

1.5.3. Điện tim

Nguyên tắc ghi điện tim: bình thường, cũng như mọi tế bào sống, màng của sợi cơ tim có hiện tượng phân cực, tức là khi nghỉ bên trong màng tích điện âm so với bên ngoài và có giá trị khoảng – 80mV đến – 90mV, gọi là điện thế nghỉ. Khi hoạt động, ở mỗi sợi cơ tim xuất hiện một điện thế hoạt động. Tổng hợp những điện thế hoạt động của các sợi cơ tim gọi là điện thế hoạt động của tim. Cơ thể con người là một môi trường dẫn điện tương đối đồng nhất, nên điện thế hoạt động do tim phát ra có thể truyền đi khắp cơ thể, ra tới da. Ta có thể ghi được điện thế hoạt động của tim bằng cách nối hai cực của máy ghi điện tim với hai điểm khác nhau của cơ thể. Cách mắc điện cực để ghi điện thế hoạt động của tim gọi là chuyển đạo. Đồ thị ghi lại các biến thiên của điện thế hoạt động do tim phát ra trong khi hoạt động gọi là điện tâm đồ (ECG – electrocardiogram).

1.5.3.1. Các chuyển đạo tim

Có hai loại chuyển đạo (đạo trình) là chuyển đạo trực tiếp và chuyển đạo gián tiếp.

Chuyển đạo trực tiếp là chuyển đạo khi đặt điện cực trực tiếp vào cơ tim. Chuyển đạo trực tiếp chỉ được sử dụng trên những bệnh nhân mở lồng ngực trong phẫu thuật hoặc trên các động vật thực nghiệm.

Ghi điện tim trên người bình thường thì dùng chuyển đạo gián tiếp, ngoài lồng ngực.

Chuyển đạo gián tiếp là chuyển đạo đặt điện cực gián tiếp ngoài lồng ngực hoặc ở các chi. Có ba loại chuyển đạo gián tiếp là:

+ Chuyển đạo song cực chi (chuyển đạo mẫu).

+ Chuyển đạo đơn cực chi.

+ Chuyển đạo trước tim.

Dưới đây chỉ trình bày ba chuyển đạo gián tiếp vì thường dùng trong y học lâm sàng.

– Chuyển đạo song cực chi (chuyển đạo mẫu):

Einthoven dùng 3 điểm là tay phải, tay trái và chân trái tạo thành một tam giác để đặt chuyển đạo gián tiếp ghi điện thế hoạt động của tim.

Trục giải phẫu của tim đi từ trên xuống dưới, từ phải sang trái. Trục điện của tim gần như trùng với trục giải phẫu, tượng trưng bằng một vectơ đi từ trên xuống dưới, từ phải sang trái (hình 9.5).

Trục điện tim trong tam giác Einthoven

Khi đặt 2 trong 3 điểm ở cổ tay và cổ chân, ta sẽ có 3 chuyển đạo:

+ DI: Điện cực thăm dò đặt ở cổ tay phải và cổ tay trái.

+ DII: Điện cực thăm dò đặt ở cổ tay phải và cổ chân trái.

+ DIII: Điện cực thăm dò đặt ở cổ tay trái và cổ chân trái.

– Chuyển đạo đơn cực chi:

Chuyển đạo đơn cực chi thực ra vẫn dùng 2 điện cực là một điện cực thăm dò và một điện cực trung tính. Điện cực trung tính được tạo ra bằng cách nối 2 trong 3 điểm (cổ tay phải, cổ tay trái và cổ chân trái) vào một điện trở 5000Ω. Vì điện trở lớn như vậy nên điện thế ở cực này không đáng kể. Biến đổi điện ta ghi được là biến đổi điện ở điện cực thăm dò.

Có ba chuyển đạo đơn cực chi là:

aVR: Điện cực thăm dò đặt ở cổ tay phải.

aVL: Điện cực thăm dò đặt ở cổ tay trái.

aVF: Điện cực thăm dò đặt ở cổ chân trái.

– Chuyển đạo đơn cực trước tim:

Để ghi điện tim ở các chuyển đạo trước tim ta đặt điện cực thăm dò gần tim, trên da ngực. Điện cực trung tính đặt như ở chuyển đạo đơn cực chi. Có 6 chuyển đạo trước tim, đó là:

V1: Điện cực thăm dò đặt ở khe liên sườn IV, sát bờ phải xương ức.

V2: Điện cực thăm dò đặt ở khe liên sườn IV, sát bờ trái xương ức.

V3: Điện cực thăm dò đặt ở giữa V2 và V4.

V4: Điện cực thăm dò đặt ở giao điểm của khe liên sườn V với đường giữa xương đòn trái.

V5: Điện cực thăm dò đặt ở giao điểm của khe liên sườn V với đường nách trước bên trái.

V6: Điện cực thăm dò đặt ở giao điểm của khe liên sườn V với đường nách giữa bên trái.

Chuyển đạo V1, V2 có điện cực thăm dò đặt trúng lên vùng thành ngực ở sát ngay trên mặt tâm thất phải và gần khối tâm nhĩ, do đó V1, V2 được gọi là các chuyển đạo trước tim phải, chúng phản ánh các biến đổi điện thế của thất phải và khối tâm nhĩ.

Chuyển đạo V5, V6 có điện cực thăm dò đặt ở thành ngực, sát trên tâm thất trái, nên được gọi là các chuyển đạo trước tim trái, chúng phản ánh các biến đổi điện thế của tâm thất trái.

Chuyển đạo V3, V4 phản ánh các biến đổi điện thế của vách liên thất.

1.5.3.2. Các chỉ số cần xác định trên điện tâm đồ

– Nhịp tim: nhịp xoang hay không xoang, nhanh hay chậm, đều hay không đều, tần số trung bình là bao nhiêu nhịp trong một phút, có ngoại tâm thu hay không (các ngoại tâm thu nhĩ thường hay bị bỏ sót). Nếu có block nhĩ thất hay flutter thì phải tính riêng tần số nhĩ (PP) và ghi lại mức độ block 2/1, 3/1…

– Xác định trục điện tim: để tính trục điện tim phải tính góc α của trục so với đường nằm ngang (còn gọi là trục 00). Có 4 kiểu trục điện tim là trục bình thường (trục trung gian), trục trái, trục phải và trục vô địch tuỳ thuộc vào góc α là bao nhiêu độ.

– Xác định tư thế tim: bằng cách so sánh hình dạng thất đồ của các chuyển đạo trước tim với các chuyển đạo đơn cực chi và chuyển đạo mẫu, người ta chia ra làm 6 loại tư thế tim như sau: tư thế nằm ngang, tư thế nửa nằm ngang, tư thế trung gian, tư thế nửa đứng thẳng, tư thế đứng thẳng và tư thế vô định.

– Xác định thời gian và biên độ của các sóng P, QRS, T. Xác định thời gian PQ và QT.

1.5.3.3. Phân tích một điện tâm đồ bình thường ở chuyển đạo DII

Bình thường các sóng P, phức hợp QRS và sóng T có biên độ lớn nhất ở chuyển đạo DII vì chuyển đạo DII gần song song với trục điện tim. Vì thế, khi cần đo thời gian và biên độ các sóng người ta thường chọn chuyển đạo DII để xác định cho rõ. Hình 9.6 mô tả các sóng ở chuyển đạo DII trên một điện tâm đồ bình thường.

Đường ghi các sóng điện tim ở DII

– Sóng P: là điện thế hoạt động của tâm nhĩ (là sóng khử cực của tâm nhĩ). Sóng này nhỏ vì cơ tâm nhĩ mỏng. Sóng P là sóng (+), điện thế từ 0,15 – 0,20 mV, thời gian từ 0,08 – 0,10 giây (có thể gặp từ 0,06 – 0,11 giây).

– Phức hợp QRS: là điện thế hoạt động của tâm thất ( là sóng khử cực của tâm thất).

+ Q là sóng (-), điện thế bình thường 0,01 – 0,03 mV.

+ R là sóng (+), nhanh, điện thế 1-1,5 mV, cao nhất ở chuyển đạo DII, lên nhanh, xuống nhanh.

+ S là sóng (-).

+ Thời gian của phức hợp QRS là 0,07 giây (có thể tới 0,10 giây) khi hai tâm thất không cùng co thì QRS kéo dài. Khi rung thất thì mất QRS.

– Sóng T: là sóng tái cực của tâm thất (xuất hiện lúc tâm thất bắt đầu giãn). T là sóng (+), điện thế ≥ 1/4 R (khoảng 0,30 mV), thời gian khoảng 0,20 giây. Sóng T không đối xứng, đường lên thoải, đường xuống dốc.

– Khoảng PQ: là thời gian dẫn truyền điện thế hoạt động (xung động) từ nhĩ xuống thất, thời gian khoảng 0,15 giây, nếu ≥ 0,20 giây là nghẽn nhĩ – thất.

– Khoảng QT: là thời gian tâm thu điện học của tim (thời gian tâm thu cơ học bắt đầu chậm hơn một chút, từ đỉnh sóng R đến cuối sóng T), thời gian khoảng 0,30 – 0,42 giây.

Để đánh giá chính xác tình trạng hoạt động của tim, người ta phải phân tích từng sóng điện tim trên cả 12 chuyển đạo, mà trong khuôn khổ bài này không cho phép trình bày tỷ mỉ hơn.

1.5.3.4. Ý nghĩa của điện tâm đồ:

– Phân tích một bản điện tâm đồ cho phép đánh giá thời gian dẫn truyền điện thế hoạt động trong hệ thống nút tự động và trong khối cơ tim. Qua việc xác định biên độ của các sóng P, QRS và T ở các chuyển đạo khác nhau cho phép đánh giá khả năng khử cực của tâm nhĩ (trái hoặc phải), khả năng khử cực và tái cực của tâm thất (trái hoặc phải). Qua đó có thể đánh giá được nhịp tim, trạng thái của cơ tim, bản chất và sự phát sinh các rối loạn nhịp tim.

– Ghi điện tim nhiều lần cho bệnh nhân tim mạch giúp đánh giá tiến triển của bệnh hoặc đánh giá khả năng hồi phục chức năng tim trong quá trình điều trị.

– Ghi điện tim trên các vận động viên giúp theo dõi tình trạng thể lựcđánh giá hiệu qu của bài tập đối với các đối tượng này.

1.6. Điều hoà hoạt động tim

Hoạt động của tim luôn thay đổi để phù hợp với nhu cầu của cơ thể: khi nghỉ ngơi lưu lượng tim khoảng 4-5 lít/phút, lúc vận cơ nặng lưu lượng tim có thể tăng lên từ 4 đến 6 lần để phù hợp với nhu cầu về oxy của cơ thể tăng lên gấp khoảng 20 lần so với bình thường. Tim có sự thích nghi và đáp ứng được với nhu cầu đó là nhờ các cơ chế điều hoà cơ bản là tự điều hoà theo cơ chế Frank – Starling và điều hoà theo các cơ chế thần kinh và thể dịch.

1.6.1. Tự điều hoà tim theo cơ chế Frank – Starling (hay theo luật Starling)

Luật Starling được phát biểu như sau: lực co của cơ tim tỷ lệ thuận với chiều dài của sợi cơ trước khi co. Điều này có nghĩa là khi máu tĩnh mạch về tâm thất càng nhiều thì cơ tâm thất càng bị kéo dài ra, làm cho các sợi actin và myosin gối nhau ở vị trí thuận lợi hơn và tạo ra lực co cơ càng mạnh. Tuy vậy, cần chú ý rằng khi cơ tim giãn ra ở một mức độ nhất định thì có tác dụng làm tăng lực tâm thu của tim, nhưng khi cơ tim bị giãn ra quá mức thì các cầu nối ở sợi myosin khó gắn vào các điểm hoạt động trên sợi actin, nên các sợi actin và myosin khó trượt vào nhau, làm giảm hoặc mất trương lực cơ tim, do vậy lực tâm thu sẽ giảm.

Chính nhờ có cơ chế tự điều hoà này mà tim có khả năng tự thay đổi lực tâm thu theo từng điều kiện của cơ thể. Mỗi khi máu về tim nhiều trong thời kỳ tâm trương, làm cho tâm thất giãn to ra, thì ở thì tâm thu tim co bóp mạnh lên để đẩy máu vào động mạch, như vậy làm tăng lưu lượng tim, tránh ứ đọng máu trong tim.

1.6.2. Điều hoà hoạt động tim theo các cơ chế thần kinh và thể dịch
1.6.2.1. Vai trò của hệ thần kinh tự chủ (Automomic nervour system):

– Hệ thần kinh phó giao cảm:

Trung tâm thần kinh phó giao cảm điều hoà hoạt động tim nằm ở hành não, đó là nhân của dây thần kinh số X. Các sợi trước hạch của dây X đi tới hạch phó giao cảm nằm ngay trong cơ tim, các sợi sau hạch phó giao cảm chi phối hoạt động của nút xoang và nút nhĩ – thất.

Thí nghiệm chứng minh vai trò của dậy X đối với hoạt động tim:

Cắt dây thần kinh X ở đoạn cổ của chó thí nghiệm, dùng dòng điện cảm ứng kích thích liên tục đầu ngoại biên của dây X cho thấy: nếu kích thích với cường độ vừa phải (tới ngưỡng) làm tim đập chậm và yếu, quan sát thấy tim bóp yếu đi và giãn to ra. Nếu tăng cường độ kích thích thì tim ngừng đập. Nhưng nếu cứ kích thích tiếp tục thì tim lại đập trở lại, đó là hiện tượng thoát ức chế. Tim thoát ức chế là do bó His phát xung động, vì bó His không chịu sự chi phối của dây X, hoặc do khi tim ngừng đập máu về tâm nhĩ nhiều làm cho áp suất máu trong tâm nhĩ tăng lên, kích thích nút xoang phát xung động trở lại.

Như vậy, tác dụng của hệ phó giao cảm đối với hoạt động của tim là:

+ Giảm tần số tim (tim đập chậm hơn).

+ Giảm lực co bóp cơ tim (tim đập yếu hơn).

+ Giảm trương lực cơ tim (cơ tim mềm hơn).

+ Giảm tốc độ dẫn truyền xung động trong tim, thể hiện bằng khoảng PQ trên điện tâm đồ dài ra.

+ Giảm tính hưng phấn của cơ tim.

Hệ thần kinh phó giao cảm tác dụng lên tim thông qua hóa chất trung gian là acetylcholin.

– Hệ thần kinh giao cảm:

Trung tâm thần kinh giao cảm điều hoà hoạt động tim nằm ở sừng bên chất xám tuỷ sống đoạn lưng 1-3, từ đây có các sợi thần kinh đi tới hạch giao cảm nằm gần cột sống. Cũng có một số sợi xuất phát từ sừng bên chất xám tuỷ sống đoạn cổ 1-7 đi đến hạch giao cảm. Các sợi sau hạch đi tới nút xoang, nút nhĩ – thất và bó His. Kích thích dây giao cảm đến tim gây ra các tác dụng ngược với tác dụng của dây X, cụ thể là:

+ Tăng tần số tim (tim đập nhanh hơn).

+ Tăng lực co bóp cơ tim (tim đập mạnh hơn).

+ Tăng trương lực cơ tim (cơ tim rắn hơn).

+ Tăng tốc độ dẫn truyền xung động trong tim.

+ Tăng tính hưng phấn của cơ tim.

Hệ thần kinh giao cảm tác dụng lên hoạt động tim thông qua hóa chất trung gian là noradrenalin.

1.6.2.2. Các phản xạ điều hoà hoạt động tim:

– Các phản xạ thường xuyên điều hoà hoạt động tim:

+ Phản xạ giảm áp: mỗi khi áp suất máu ở quai động mạch chủ và xoang động mạch cảnh tăng, tác động vào các receptor nhận cảm áp suất ở đây, làm xuất hiện các xung động chạy theo dây thần kinh Hering về hành não, kích thích dây X, làm cho tim đập chậm và yếu, dẫn đến huyết áp giảm.

+ Phản xạ làm tăng nhịp tim: khi nồng độ oxy trong máu giảm, nồng độ khí CO2 tăng, tác động lên receptor nhận cảm hóa học ở thân động mạch cảnh và động mạch chủ, làm xuất hiện xung động đi theo dây thần kinh Hering về hành não, ức chế dây X, làm cho tim đập nhanh lên.

+ Phản xạ tim – tim (phản xạ Bainbridge): khi máu về tâm nhĩ phải nhiều, làm căng vùng Bainbridge là vùng quanh hai tĩnh mạnh chủ đổ vào tâm nhĩ phải, từ vùng này sẽ phát sinh xung động đi theo các sợi cảm giác của dây X về hành não, ức chế dây X, làm cho tim đập nhanh, có tác dụng thanh toán tình trạng ứ trệ máu ở tim phải. Phản xạ này làm tăng huyết áp.

– Các phản xạ bất thường điều hoà hoạt động tim:

+ Phản xạ mắt – tim: khi tim đập nhanh (≥ 140 lần/ phút), nếu ép mạnh vào hai nhãn cầu sẽ kích thích đầu mút dây V, tạo ra xung động theo dây V về hành não, kích thích dây X, làm cho tim đập chậm lại.

+ Phản xạ Goltz: bị đấm mạnh vào vùng thượng vị, hoặc co kéo các tạng ở ổ bụng khi phẫu thuật, thì các kích thích cơ học này sẽ kích thích vào đám rối dương, gây ra xung động theo dây tạng đi lên hành não, kích thích dây X, làm cho tim đập chậm hoặc ngừng đập.

1.6.2.3. Ảnh hưởng của vỏ não và một số trung tâm thần kinh khác

– Hoạt động của vỏ não: các cảm xúc mạnh như hồi hộp, sợ hãi làm biến đổi nhịp tim, như khi hồi hộp tim đập nhanh, khi sợ hãi hoặc quá xúc động nhịp tim có thể tăng lên, nhưng cũng có khi tim đập chậm, thậm chí ngừng đập.

– Trung tâm hô hấp ảnh hưởng đến trung tâm dây X ở hành não: khi hít vào, trung tâm hít vào ở hành não ức chế trung tâm dây X, làm tim đập nhanh hơn một chút. Khi thở ra, trung tâm dây X thoát ức chế, làm tim đập chậm lại một chút.

– Trung tâm nuốt ở hành não ảnh hưởng đến trung tâm dây X: khi nuốt, trung tâm nuốt ức chế trung tâm dây X, làm tim đập nhanh hơn một chút.

1.6.2.4. Điều hoà hoạt động tim bằng cơ chế thể dịch

– Hormon tuyến giáp: hormon T3, T4 của tuyến giáp có tác dụng làm tim đập nhanh, vì vậy ở bệnh nhân bị ưu năng tuyến giáp luôn có nhịp tim nhanh, ngược lại ở bệnh nhân nhược năng tuyến giáp có nhịp tim chậm.

– Hormon tuyến tuỷ thương thận: hormon adrenalin có tác dụng làm cho tim đập nhanh.

– Nồng độ khí oxy giảm, CO2 tăng trong máu động mạch làm tim đập nhanh. Ngược lại khi nồng độ khí oxy tăng, CO2 giảm trong máu động mạch sẽ làm giảm nhịp tim. Nhưng nếu khí CO2 tăng cao quá thì cơ tim sẽ bị ngộ độc, hoặc nếu khí oxy giảm thấp quá cơ tim sẽ thiếu dinh dưỡng, thì tim sẽ đập chậm lại.

– Nồng độ ion Ca2+ trong máu tăng làm tăng trương lực cơ tim.

– Nồng độ ion K+ trong máu tăng làm giảm trương lực cơ tim.

– PH của máu giảm làm tim đập nhanh.

– Nhiệt độ cơ thể: khi thân nhiệt tăng làm tim đập nhanh, trong trường hợp bị sốt tim đập nhanh. Ngược lại nhịp tim giảm trong hạ nhiệt nhân tạo (trong mổ tim phải hạ nhiệt nhân tạo xuống còn 25°C – 30°C để cơ thể có thể chịu đựng được với sự thiếu oxy).

Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC

Tham gia nhóm zaloTài Liệu Y Học Tổng Hợp

Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

All in one