Bài 3
CÁC CƠ VÀ MẠC CỦA CỔ VÀ THÂN
MỤC TIÊUTrình bày được cách bám, động tác và sự chi phối thần kinh của các cơ và các nhóm cơ của cổ và thân. |
1. CƠ VÀ MẠC CỦA CỔ
1.1. Các cơ của cổ (muscles of neck)
Cổ được chia thành ba vùng: vùng cổ trước, vùng cổ bên và vùng cổ sau (vùng gáy). Các cơ của vùng cổ sau được xếp vào nhóm các cơ của lưng nên không được mỗ tả ở phần này. Các cơ nằm trong hai vùng cổ trước và bên được chia thành 3 nhóm, từ nông vào sâu:
– Các cơ nông ở hai bên cổ gồm cơ ức – đòn – chũm và cơ bám da cổ
– Các cơ trên móng và các cơ dưới móng nằm ở vùng cổ trước
– Các cơ trước và các cơ bên cột sống
Ngoài các cơ vùng cổ trước – bên, các cơ dưới chẩm cũng được xem như một trong các nhóm cơ của cổ.
1.1.1. Các cơ nông vùng cổ bên
1.1.1.1. Cơ bám da cổ (platysma)
Hình 3.1. Cơ bám da cổ
Cơ bám da cổ là một phiến cơ rộng. Đầu dưới của cơ (đầu nguyên ủy) bám vào mạc phủ phần trên của các cơ ngực lớn và delta. Các sợi cơ chạy lên trên và vào trong trong mô dưới da của mặt bên của cổ. Các sợi trước đan xen tại đường giữa với các sợi trước đối bên ở sau và dưới khớp dính cằm. Các sợi trung gian bám vào bờ dưới thân xương hàm dưới hoặc chạy lên ở dưới cơ hạ góc miệng để bám vào nửa ngoài của mỗi dưới. Các sợi sau bắt chéo xương hàm dưới và phần trước cơ cắn để tới bám vào da phần dưới của mặt, trong đó nhiều sợi hoà lẫn với các cơ bám vào trụ xơ – cơ ngoài góc miệng.
Cơ bám da cổ do nhánh cổ của thần kinh mặt vận động. Sự co cơ có tác dụng làm giảm độ lõm giữa xương hàm dưới và mặt bên của cổ. Các sợi bám vào môi và góc miệng có tác dụng kéo hai phần miệng này xuống.
1.1.1.2. Cơ ức – đòn – chũm (sternocleidomastoid)
Cơ ức – đòn – chũm chạy chếch từ dưới lên qua mặt bên của cổ. Nó là một mốc bề mặt rõ nét, nhất là khi có.
Nguyên ủy: Phần trên mặt trước cán ức và 1/3 trong mặt trên xương đòn.
Bám tận: Mặt ngoài mỏm chũm xương thái dương, 1/2 ngoài đường gáy trên.
Thần kinh: Thần kinh phụ chi phối vận động, nhánh từ ngành trước thần kinh cổ II chi phối cảm giác bản thế.
Động tác: Một cơ co làm nghiêng đầu về vai cùng bên, đồng thời làm xoay mặt về phía đối diện. Hai cơ co kéo đầu ra trước và hỗ trợ cơ dài cổ gấp cột sống cổ.
1.1.2. Các cơ trên móng (suprahyoid muscles) và các cơ dưới móng (infrahyoid muscles)
Các cơ trên móng nằm trên xương móng, nối xương móng vào sọ và bao gồm cơ hàm móng, cơ cằm móng, cơ trâm móng và cơ hai bụng.
Các cơ dưới móng gồm 4 cơ nằm dưới xương móng: cơ ức móng, cơ ức giáp, cơ giáp móng và cơ vai móng.
Cả 4 cơ này khi co làm hạ thấp xương móng và thanh quản trong lúc nuốt và nói. Nhóm cơ trên móng và nhóm cơ dưới móng có tác dụng đối kháng nhau. Tuy nhiên, khi cả hai nhóm cơ cũng co thì giữ cố định xương móng, làm cho các cơ lưỡi bám vào xương móng có thể hoạt động được trên một nền xương cố định. Hai nhóm cơ có thể phối hợp trong cử động xoay tròn xương móng. Trừ cơ hai bụng, tất cả các cơ trên và dưới móng được gọi tên theo chỗ bám.
Bảng 3.1. Các cơ trên móng và các cơ dưới móng
Cơ | Nguyên ủy | Bám tận | Thần kinh chi phối | Động tác |
Các cơ trên móng:
Cơ hàm móng |
Đường hàm móng xương hàm dưới | Mặt trước thân xương móng và đường đan sợi giữa | Thần kinh cơ hàm móng, một nhánh của thần kinh huyệt răng dưới | Nâng xương móng, nâng sàn miệng: hạ xương hàm dưới |
Cơ cằm – móng | Gai cằm dưới ở mặt sau dinh cằm | Mặt trước thân xương móng | Nhánh của thần kinh CI qua đường hầm thần kinh XII | Kéo xương móng ra trước và lên trên, làm ngắn sàn miệng |
Cơ trâm – móng | Mỏm trâm xương thái dương | Tại chỗ nối thân với sừng lớn xương móng | Nhám cơ trâm móng của thần kinh mặt | Nâng và kéo xương móng ra sau, kéo dài sàn miệng |
Cơ hai bụng gồm hai bụng nối với nhau bằng 1 gân trung gian | Bụng sau: khuyết chũm xương thái dương
Bụng trước: hố cơ hai bụng của xương hàm móng |
Gân trung gian bám vào thân và sừng lớn xương móng, gân xuyên qua cơ trâm móng | Bụng sau: thần kinh mặt
Bụng trước: thần kinh hàm móng, nhánh của thần kinh huyệt răng dưới |
Nâng xương móng và cố định xương móng
Hạ xương hàm dưới |
Các cơ dưới móng:
Cơ ức móng |
Mặt sau đầu trong xương đòn, dây chằng ức – đòn sau và mặt sau cán ức | Bờ dưới thân xương móng, sát đường giữa | Các nhánh từ quai cổ (CI, CII và CIII) | Hạ thấp xương móng và thanh quản |
Cơ vai – móng có 2 bụng | Bụng dưới bám vào bờ trên xương vai gần khuyết trên vai.
Các sợi chạy lên tới một gân trung gian ở sau cơ ức đòn chũm |
Bụng trên: các sợi từ gân trung gian chạy lên bám vào bờ dưới thân xương móng | Các nhánh từ quai cổ (CI, CII và CIII) | Hạ thấp, kéo ra sau và giữ vững xương móng: kéo căng phần dưới của mạc cổ sâu |
Cơ ức – giáp | Mặt sau của cán ức và sụn sườn I | Đường chéo của mảnh sụn giáp | Các nhánh từ quai cổ (CI, CII và CIII) | Kéo xương móng và thanh quản xuống dưới |
Cơ giáp – móng | Đường chéo của mảnh sụn giáp | Bờ dưới của thân và sừng lớn xương móng | Nhánh của thần kinh CI qua đường hầm thần kinh XII | Hạ xương móng và nâng sụn giáp |
Hình 3.2. Cơ ức đòn chũm, cơ trên móng và cơ dưới móng
1.2. Các mạc cổ
– Tấm dưới da cổ: Tấm dưới da cổ thường được gọi là mạc nông của cổ. Mạc này bao bọc cơ bám da cổ và vùi trong mạc này là các thần kinh bì, các tĩnh mạch nông và các hạch bạch huyết nông.
– Mạc cổ (cervical fascia): Nếu tấm dưới da cổ được gọi là mạc cổ nông thì mạc cổ cũng được gọi là mạc cổ sâu. Mạc cổ là mô liên kết xốp bao bọc các cơ, các mạch máu và các tạng cổ. Mạc cổ đặc lại ở một số vùng tạo nên những lá sợi gọi là lá nông, lá trước khí quản và lá trước sống. Nó cũng đặc lại ở quanh các mạch cảnh tạo nên bao cảnh.
+ Lá nông mạc cổ (superficial layer) hay lá bọc, hoàn toàn bao quanh cổ, tách ra để bọc cơ thang và cơ ức đòn chũm; nó bám ở sau vào dây chằng gáy. Nó được ví như trần của các tam giác cổ trước và sau.
Ở phía trên, lá nông mạc bám vào đường gáy trên của xương chẩm, mỏm chũm và dọc theo toàn bộ nền của xương hàm dưới. Ở giữa mỏm chũm và xương hàm dưới, nó bao bọc tuyến nước bọt mang tai. Lá phủ mặt nông của tuyến chạy lên như là mạc mang tai và bám vào cung gò má. Lá phủ mặt sâu của tuyến dày lên tạo nên dây chằng trâm hàm dưới đi từ góc hàm dưới tới mỏm trâm. Ở phía dưới, lá nông bám vào mỏm cùng vai, xương đòn và cán xương ức. Ở ngay trên cán ức, nó tách ra thành hai lá bám vào các bờ trước và sau của cán ức. Ở giữa hai lá này là một khoang nhỏ gọi là khoang trên ức, một khoang chứa phần dưới tĩnh mạch cảnh trước, cung tĩnh mạch cảnh và có thể một hạch bạch huyết. Trên phần dưới của tam giác cổ sau, lá nông tách thành hai lá bám vào các bờ trước và sau của xương đòn; lá sâu cũng bao bọc bụng dưới cơ vai móng.
+ Lá trước khí quản tạo nên một bao mạc cho tuyến giáp. Ở trên, nó bám vào cung sụn nhẫn; ở dưới, nó chạy vào trung thất trên cùng với các tĩnh mạch giáp dưới.
+ Lá trước sống của mạc cổ che phủ các cơ trước sống và trải rộng sang bên trước cơ bậc thang trước, cơ bậc thang giữa và cơ nâng vai, tạo nên một sàn mạc của tam giác cổ sau. Khi động mạch dưới đòn và đám rối cánh tay thoát ra từ sau cơ bậc thang trước, chúng kéo theo lá trước sống đi xuống và sang bên ở sau xương đòn, tạo nên bao nách. Về phía bên, lá trước sống trở nên một mô xốp nằm dưới cơ thang. Về phía trên, nó bám vào nền sọ; về phía dưới, nó đi xuống trước cơ dài cổ vào trung thất trên, nơi nó hoà lẫn với dây chằng dọc trước. Về phía trước, lá trước sống được ngăn cách với hầu bằng một khoang chứa mô liên kết xốp gọi là khoang sau hầu. Tất cả các ngành trước của các thần kinh sống cổ lúc đầu nằm ở sau lá trước sống. Thần kinh hoành, thần kinh lưng vai và thần kinh cơ răng trước luôn giữ vị trí ở sau lá trước sống trên suốt đường đi của chúng ở cổ nhưng thần kinh phụ nằm nông hơn lá trước sống.
1.3. Các tam giác cổ
Cổ được chia thành các vùng trước, bên và sau. Vùng cổ sau tương ứng với vùng chứa cơ thang; còn các vùng cổ trước và bên ngăn cách nhau bằng vùng ức đòn chùm. Vùng cổ trước còn được gọi là tam giác cổ trước (anterior triangle of neck); vùng cổ bên cũng được gọi là tam giác cổ sau (posterior triangle of neck).
1.3.1. Tam giác cổ trước
Các giới hạn của tam giác cổ trước là: ở trước là đường giữa trước; ở trên là một đường chạy dọc nền xương hàm dưới và chạy tiếp tục từ góc hàm dưới tới mỏm chũm; ở sau là bờ trước cơ ức đòn chũm. Đỉnh của tam giác nằm ở bờ trên xương ức.
Tam giác cổ trước được cơ hai bụng và bụng trên cơ vai móng chia thành các tam giác nhỏ hơn: tam giác cảnh, tam giác cơ, tam giác dưới hàm dưới và tam giác dưới cằm.
Tam giác cơ: Tam giác cơ được giới hạn ở trước bởi đoạn đường giữa cổ từ xương móng tới xương ức, ở sau – dưới bởi bờ trước cơ ức đòn chũm và ở sau trên bởi bụng trên cơ vai móng.
Tam giác cảnh: Tam giác cảnh được giới hạn ở sau bởi cơ ức đòn chũm, ở trước – dưới bởi bụng trên cơ vai móng và ở trên bởi bụng sau cơ hai bụng. Tam giác cảnh được che phủ bởi mạc cổ và các lớp nông hơn mạc cổ; sàn của nó do các cơ khít hầu giữa và dưới cùng một phần của các cơ giáp móng và móng lưỡi tạo nên. Tam giác cảnh chứa:
(1) Đoạn cuối của động mạc cảnh chung và đoạn đầu của các động mạch cảnh trong và ngoài
(2) Các nhánh của động mạch cảnh ngoài và các tĩnh mạch tương ứng với chúng
(3) Thần kinh hạ thiệt cùng rễ trên của quai cổ
(4) Các thần kinh thanh quản trong và ngoài
Tam giác dưới hàm dưới: Tam giác dưới hàm dưới (thường được gọi là tam giác hai bụng), được giới hạn ở trên bởi nền xương hàm dưới, ở sau – dưới bởi bụng sau cơ hai bụng và ở trước – dưới bởi bụng trước cơ hai bụng. Nó được che phủ bởi lá nông mạc cổ và các lớp nông hơn; sàn của nó do các cơ hàm móng và móng lưỡi tạo nên. Vùng trước của tam giác chứa tuyến nước bọt dưới hàm cùng với động mạch mặt đi ở mặt sâu của tuyến và tĩnh mạch mặt và các hạch bạch huyết dưới hàm đi ở mặt nông của tuyến. Vùng sau của tam giác chứa phần dưới của tuyến mang tai.
Tam giác dưới cằm: Tam giác dưới cằm là một tam giác đơn. Đỉnh của nó là cằm, nền là thân xương móng và hai cạnh bên là bụng trước của các cơ hai bụng. Sàn của tam giác dưới cằm là cơ hàm móng. Nó chứa các hạch bạch huyết và các tĩnh mạch nhỏ hợp nên tĩnh mạch cảnh trước..
1.3.2. Tam giác cổ sau
Tam giác cổ sau được giới hạn ở trước bởi cơ ức đòn chũm, ở sau bởi bờ trước cơ thang và ở dưới bởi phần ba giữa xương đòn; đỉnh của nó nằm ở giữa các chỗ bám tận của cơ ức đòn chũm và cơ thang vào mỏm chũm.
Nó được che phủ bởi lá nông mạc cổ và các lớp nông hơn; sàn của nó được tạo bởi, từ trên xuống, cơ bán gai đầu, cơ gối đầu, cơ nâng vai và cơ bậc thang giữa. Bụng dưới cơ vai móng bắt chéo tam giác cổ sau và chia nó thành tam giác chẩm và tam giác vai đòn; tam giác chẩm là tam giác lớn hơn nằm ở trên.
Các thành phần đi qua tam giác cổ sau bao gồm: thần kinh phụ, các nhánh của đám rối cổ lộ ra ở bờ sau cơ ức đòn chũm, phần trên đòn của đám rối cánh tay, đoạn ngoài cơ bậc thang của động mạch dưới đòn, động mạch ngang cổ, động mạch trên vai, tĩnh mạch cảnh ngoài và các nhánh của nó.
2. CÁC CƠ CỦA THÂN
Các cơ của thân bao gồm các cơ lưng, các cơ ngực (trong đó có cơ hoành) và các cơ bụng (bao gồm cả các cơ của hoành chậu hông và đáy chậu).
2.1. Các cơ của lưng (muscles of back)
Các cơ ở lưng bao gồm các cơ đích thực (riêng) của lưng và các cơ không đích thực của lưng.
2.1.1. Các cơ lưng đích thực (muscles of back proper)
Hình 3.3. Các cơ nội tại của lưng
Là các cơ sâu nằm cạnh cột sống (hay cơ nội tại của cột sống). Chúng hợp nên một khối cơ phức tạp đi từ chậu hông tới xương sọ và bao gồm:
– Cơ dựng sống (erector spinae)
– Các cơ gai ngang (spinotransversales) và các cơ ngang – gai (transversospinales)
– Các cơ gian gai (interspinales)
– Các cơ gian ngang (intertransversarii)
Tác dụng của các cơ lưng đích thực là ruỗi, nghiêng và xoay cột sống. Chúng đều do các nhánh sau của thần kinh sống chi phối.
2.1.2. Các cơ lưng không đích thực
Là các cơ nông bao gồm cơ thang, cơ lưng rộng, cơ nâng vai, cơ trám, cơ răng sau trên và cơ răng sau dưới. Trừ các cơ răng sau, các cơ lưng không đích thực đều đã được mô tả cùng với cơ chi trên. Cơ răng sau trên (serratus posterior superior) từ mỏm gai các đốt sống từ cổ VI đến ngực II đi tới bốn xương sườn trên cùng. Cơ răng sau dưới từ mỏm gai các đốt sống từ ngực XI đến thắt lưng III đi tới bốn xương sườn dưới cùng.
2.2. Các cơ của ngực (muscles of thorax)
Các cơ làm thay đổi kích thước của lồng ngực (trong lúc thở). Các cơ ngực bao gồm:
– Cơ quan trọng nhất của nhóm này là cơ hoành (được mô tả riêng ở mục 2.4).
– Những cơ hô hấp khác chiếm khoảng nằm giữa các xương sườn và được xếp thành ba lớp:
+ Ở lớp nông có 11 cơ gian sườn ngoài (external intercostal muscle), các sợi của chúng chạy chếch xuống dưới và ra trước từ bờ dưới xương sườn trên tới bờ trên xương sườn dưới. Chúng nâng các xương sườn trong lúc hít vào.
+ 11 cơ gian sườn trong (internal intercostal muscle) chiếm lớp giữa của các khoang gian sườn. Các sợi của chúng chạy chếch xuống dưới và ra sau từ bờ dưới của xương sườn trên tới bờ trên của xương sườn dưới. Chúng kéo các xương sườn lại gần nhau trong thì thở ra gắng sức, làm giảm các đường kính bên và trước – sau của lồng ngực. Bó mạch – thần kinh gian sườn chia cơ gian sườn trong thành hai lớp; lớp ở trong (sâu hơn) bó mạch – thần kinh còn được gọi là cơ gian sườn trong cùng.
+ Lớp cơ sâu chỉ có ở phần dưới lồng ngực, bao gồm cơ ngang ngực (transversus thoracis) đi từ nửa dưới mặt sau xương ức tới mặt sau các sụn sườn từ thứ III tới thứ VI, các cơ dưới sườn (subcostales) từ bờ dưới các xương sườn đi tới bờ trên của xương sườn thứ hai hoặc thứ ba phía dưới.
Các cơ gian sườn, các cơ dưới sườn và cơ ngang ngực do các thần kinh gian sườn chi phối.
Các cơ cũng nằm trên lồng ngực nhưng lại vận động đai ngực hoặc xương cánh tay (như cơ ngực to, cơ ngực bé, cơ dưới đòn, cơ răng trước) được mô tả cùng với cơ chi trên.
Hình 3.4. Các cơ gian sườn
2.3. Các cơ thành bụng
2.3.1. Các cơ thành bụng trước bên
Từ nông vào sâu, thành bụng trước – bên được cấu tạo bởi da, mạc nóng, các cơ, mạc ngang và phúc mạc. Có 4 cơ chính: ở phía trước có cơ thẳng bụng; ở phía bên có ba cơ rộng, dẹt tính từ nông vào sâu là cơ chéo bụng ngoài, cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng.
Cơ thẳng bụng là một cơ dài từ mào mu và khớp mu chạy lên bám vào các sụn sườn V – VII và mỏm mũi kiếm xương ức, tức là đi suốt chiều dài thành bụng trước. Mặt trước của cơ bị chia cắt bởi từ 3 đến 5 dải mô xơ chạy ngang gọi là các đường gần cắt ngang.
Hình 3.5. Các cơ thành bụng trước – bên
Ở thành bụng bên, ba lớp cơ dẹt cũng đủ tạo nên một thành cơ vững chắc vì các sợi của mỗi cơ chạy theo một hướng khác nhau:
– Các sợi của cơ chéo bụng ngoài chạy chếch xuống dưới và vào trong.
– Các sợi của cơ chéo bụng trong chạy thẳng góc với các sợi của cơ chéo bụng ngoài.
– Các sợi của cơ ngang bụng chạy ngang quanh thành bụng.
Nhờ sự sắp xếp này mà thành bụng trở nên khoẻ, các tạng trong ổ bụng không thể chui ra ngoài qua khe giữa các bó sợi cơ. Khi chạy tới gần bờ ngoài cơ thẳng bụng, mỗi cơ dẹt của thành bụng bên đều liên tiếp với một lá cân (gân dẹt).
Cân của cả ba cơ tiếp tục chạy trước hoặc sau cơ thẳng bụng để đi vào đường giữa bụng và tạo nên bao cơ thẳng bụng với hai lá trước và lá sau:
– Ở 3/4 trên thành bụng trước, lá trước bao cơ thẳng bụng do cân cơ chéo bụng ngoài và lá trước cân cơ chéo bụng trong tạo nên; lá sau do cân cơ ngang bụng và lá sau cân cơ chéo bụng trong tạo nên.
– Ở 1/4 dưới thành bụng trước, cận của cả ba cơ đi trước cơ thẳng bụng và tạo nên lá trước của bao cơ, lá sau bao cơ thẳng bụng ở đoạn này do mạc ngang tạo nên. Cân của ba cơ dính liền với nhau và với cân của ba cơ bên đối diện tại đường giữa – trước để tạo nên một đường đan gân gọi là đường trắng. Đường trắng nằm giữa hai cơ thẳng bụng và trải dài từ mỏm mũi kiếm xương ức tới khớp mu.
Bảng 3.2. Các cơ thành bụng trước – bên
Cơ | Nguyên ủy | Bám tận | Động tác |
Cơ thẳng bụng | Củ mu và mào mu | Sụn của các xương sườn V – VII và mỏm mũi kiếm xương ức | Gấp cột sống, nhất là đoạn thắt lưng và |
Cơ tháp | Thân xương mu | Phần dưới đường trắng | Làm căng đường trắng |
Cơ chéo bụng ngoài | Mặt ngoài các xương sườn từ V đến XII | Đường trắng, củ mu và nửa trước mào chậu | Co cơ cả hai bên: ép các tạng bụng và gấp cột sống, co cơ một bên làm nghiêng cột sống và xoay cột sống |
Cơ chéo bụng trong | Mạc ngực – thắt lưng, mào chậu và 1/2 ngoài dây chằng bẹn | Bờ dưới các xương sườn X – XII, đường trắng và xương mu (qua liềm bẹn) | Co cơ hai bên: ép các tạng bụng và gấp cột sống, co cơ một bên: nghiêng bên và xoay cột sống |
Cơ ngang bụng | Mặt trong của 6 xương sườn dưới, mạc ngực – thắt lưng, mào chậu và 1/3 ngoài dây chằng bẹn | Đường trắng, mào mu và lược xương mu (qua liềm bẹn) | Ép các tạng bụng |
Tác dụng của các cơ thành bụng trước bên:
Với tính chất như một nhóm cơ, các cơ của thành bụng trước bên bảo vệ và giữ cho các tạng bụng không sa ra ngoài; gấp, nghiêng bên và xoay cột sống; nén ép các tạng bụng trong lúc thở ra gắng sức và tạo ra áp lực cần thiết trong ổ bụng trong lúc đại tiện, tiểu tiện và sinh đẻ.
Thần kinh chi phối các cơ thành bụng trước bên:
– Cơ thẳng bụng được chi phối bởi những nhánh từ các thần kinh T7 – T12
– Cơ chéo bụng ngoài được chi phối bởi những nhánh từ các thần kinh T7 – T12 và thần kinh chậu-hạ vị
– Cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng do những nhánh từ các thần kinh T6 – T12 và các thần kinh chậu – hạ vị và chậu – bẹn chi phối.
2.3.2. Các cơ thành bụng sau
Thành bụng sau được tạo nên bởi cột sống, cơ thắt lưng lớn, cơ chậu và cơ vuông thắt lưng. Cơ thắt lưng – chậu đã được mô tả ở phần cơ chi dưới (Bài 8). Ở đây chỉ mô tả cơ vuông thắt lưng.
Cơ vuông thắt lưng (quadratus lumbarum):
Nguyên uỷ, đường đi: xuất phát từ phần sau của mào chậu, các sợi cơ chạy thẳng lên trên.
Bám tận: bờ dưới xương sườn XII và mỏm ngang các đốt sống thắt lưng từ I đến IV.
Hình 3.6. Các cơ thành bụng sau
2.4. Cơ hoành
Cơ hoành (diaphagm) là một phiến cơ xơ cong hình vòm ngăn cách khoang ngực với khoang bụng. Mặt lồi của nó hướng về phía khoang ngực. Cơ hoành gồm phần cơ ở xung quanh và phần gân ở giữa. Trên cơ hoành có nhiều lỗ để các tạng, mạch và thần kinh đi qua.
Nguyên uỷ: Mặc dù là một phiến cơ liên tục, cơ hoành được chia làm ba phần (ức, sườn và thắt lưng) dựa trên các vùng bám ở ngoại vi:
– Phần ức (sternal part) bám vào mặt sau mỏm mũi kiếm xương ức.
– Phần sườn (costal part) gồm các trẽ cơ bám vào mặt trong của 6 sụn và xương sườn dưới. Các trẽ cơ của cơ hoành đan xen với các trẽ cơ của cơ ngang bụng.
– Phần thắt lưng (lumbar part) bám vào các dây chằng cung trong và ngoài và vào cột sống thắt lưng bởi hai trụ.
Hình 3.7. Cơ hoành
Các trụ: Trụ phải (right crus) bám vào bám vào mặt trước – bên của thân và đĩa gian đốt sống của ba đốt sống thắt lưng trên. Trụ trái (left crus) ngắn hơn, bám vào thân hai đốt sống thắt lưng trên. Bờ gân trong của hai trụ gặp nhau tại đường giữa để tạo nên một cung vắt ngang trước động mạch chủ gọi là dây chẳng cung giữa (median arcuate ligament).
Dây chẳng cung trong (medial arcuate ligament) là chỗ dầy lên của lá mạc phủ phần trên cơ thắt lưng lớn. Về phía trong nó liên tiếp với bờ gần ngoài của trụ cùng bên và bám vào thân các đốt sống thắt lưng I và II; về phía ngoài, nó bám vào mỏm ngang đốt sống thắt lưng I.
Dây chẳng cung ngoài (lateral arcuate ligament) bắc ngang qua trước phần trên cơ vuông thắt lưng, là chỗ dầy lên của lá mạc phủ cơ vuông thắt lưng. Nó đi từ mỏm ngang đốt sống ngực XII tới bờ dưới xương sườn XII.
Bám tận: Từ các chỗ bám ở ngoại vi, các sợi của cơ hoành tập trung vào một tấm gân giữa gọi là gân trung tâm (central tendon) – nơi bám tận chung của các phản cơ hoành. Các sợi của phần ức thì ngắn và gần như chạy ngang. Các sợi từ hai dây chằng cung và từ các xương sườn – sụn sườn thì dài hơn. Lúc đầu chúng chạy gần như thẳng đứng rồi sau đó chạy cong về phía gân trung tâm. Các sợi từ hai trụ chạy phân tán. Các sợi trong của trụ phải ôm quanh thực quản trên đường vòng sang trái.
Gân trung tâm nằm gần ở giữa cơ nhưng hơi lệch về phía trước. Nó có hình ba lá:
– Lá trước (lá giữa )có dạng tam giác cân đỉnh hướng ra trước
– Các lá phải và lá trái có hình lưỡi và chạy về phía sau – bên.
Các lỗ cơ hoành: Các cấu trúc chạy qua lại giữa ngực và bụng qua các lỗ của cơ hoành. Có ba lỗ lớn cho động mạch chủ, thực quản và tĩnh mạch chủ dưới và một số lỗ nhỏ hơn:
– Lỗ động mạch chủ (aortic hiatus) nằm ở ngang mức bờ dưới đốt sống ngực XII, hơi lệch về phía trái đường giữa. Lỗ này nằm trước cột sống và giữa hai trụ. Đây là nơi đi qua của động mạch chủ và ống ngực.
– Lỗ thực quản (esophageal hiatus) nằm ở ngang mức đốt sống ngực X; nó ở trên, trước và hơi về phía trái lỗ động mạch chủ. Lỗ thực quản nằm ở phần cơ. Bao quanh lỗ là các sợi cơ xuất phát từ phần trong của trụ phải và bắt chéo qua đường giữa. Đi qua lỗ có thực quản và các thân thần kinh X trước và sau. Các nhánh thực quản của các mạch vị trái và một số mạch bạch huyết cũng đi qua đây.
– Lỗ tĩnh mạch chủ (caval opening) nằm ở gần trung tâm, giữa lá phải và lá trước. Lỗ nằm ngang mức đĩa gian đốt sống ngực VIII và IX. Đi qua lỗ có tĩnh mạch chủ dưới và một số nhánh của thần kinh hoành phải.
– Các lỗ nhỏ: Trên mỗi trụ cơ hoành có hai lỗ nhỏ. Một lỗ cho thần kinh tạng lớn qua, một lỗ cho thần kinh tạng bé qua. Thân giao cảm thường đi sau cơ hoành, cụ thể là sau dây chẳng cung trong.
2.5. Các cơ của hoành chậu hông và đáy chậu
2.5.1. Các cơ của hoành chậu hông
Hình 3.7. Các cơ hoành chậu hông nữ
Lỗ dưới của chậu hông được đậy bằng cơ nâng hậu môn và cơ ngồi – cụt. Những cơ này cùng với các mạc phủ ở các mặt trên và dưới của chúng được gọi chung là hoành chậu hông. Hoành chậu hông bị niệu đạo và ống hậu môn xuyên qua, riêng ở nữ có thêm âm đạo xuyên qua.
2.5.1.1. Cơ nâng hậu môn (levator ani)
Cơ nâng hậu môn đi từ xương mu ở trước tới xương cụt ở sau và từ hai thành bên chậu hông tiến về đường giữa. Nó gồm 3 phần:
(1) Cơ mu – cụt (pubococcygeus) là phần đi từ xương mu tới xương cụt; một số sợi của nó bám vào niệu đạo, vào ống hậu môn (gọi là cơ mu – hậu môn – pubo – analis), vào âm đạo của nữ (gọi là cơ mu – âm đạo – pubovaginalis), vào thể đáy chậu (gọi là cơ mu – đáy chậu – puboperinealis). Những sợi trong cùng của nam giới nâng đỡ cho tuyến tiền liệt và vì vậy được gọi là cơ mu tiền liệt (puboprostaticus). Ở sau ống hậu môn, cơ mu – cụt bám vào đỉnh xương cụt và vào đường đan xơ – cơ nối ống hậu môn với xương cụt (gọi là thể hậu môn – cụt).
(2) Cơ mu-trực tràng (puborectalis) từ xương mu chạy ra sau ôm lấy bờ sau ống hậu môn và đan với những sợi của cơ bên đối diện. Cơ này nằm dưới cơ mu – cụt.
(3) Cơ chậu – cụt (iliococcygeus) từ gai ngồi và cung gân cơ nâng hậu môn chạy vào trong và ra sau bám vào xương cụt và thể hậu môn – cụt.
2.5.1.2. Cơ ngồi – cụt (ischiococcygeus)
Cơ ngồi – cụt từ gai ngồi toả rộng ra bám vào bờ bên của hai đốt sống cùng dưới và hai đốt sống cụt trên.
Hoành chậu hông có tác dụng nâng đỡ và duy trì vị trí của các tạng chậu hông; kháng lại tình trạng tăng áp lực trong ổ bụng lúc thở ra gắng sức, ho, nôn, tiểu tiện, đại tiện; kéo xương cùng ra trước sau lúc đại tiện hoặc sinh con; co khít các lỗ xuyên qua hoành chậu hông.
Cơ nâng hậu môn do các thần kinh sống cùng II – IV chi phối; cơ ngồi – cụt do các thần kinh cùng IV – V chi phối.
Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC
Tham gia nhóm zalo: Tài Liệu Y Học Tổng Hợp
Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY