Bài 4.A
THÀNH NGỰC – BỤNG VÀ ỐNG BẸN
MỤC TIÊUMô tả được giải phẫu bề mặt và cấu tạo của thành ngực – bụng và ống bẹn |
1. THÀNH NGỰC
Ngực gồm thành ngực và khoang ngực; khoang ngực chứa các tạng ngực. Bài này trình bày giải phẫu bề mặt của thành ngực và cấu tạo của thành ngực.
1.1. Giải phẫu bề mặt
Để có thể khám ngực bằng cách nhìn, sờ, gõ và nghe, thầy thuốc phải biết được giải phẫu bình thường của ngực, biết được vị trí bình thường của tim và các phổi trong mối liên quan với các mốc bề mặt có thể nhìn hoặc sờ được trên các mặt trước và sau của thành ngực.
1.1.1. Các mốc bề mặt trên mặt trước thành ngực
– Khuyết tĩnh mạch cảnh: Nằm ở bờ trên của cán ức, giữa đầu trong của các xương đòn, ngang mức bờ dưới của thân đốt sống ngực thứ hai.
– Góc ức: Góc giữa thân và cán ức, ngang mức với nơi sụn sườn thứ hai khớp với bờ bên xương ức, đối diện đĩa gian đốt sống giữa các đốt sống ngực thứ thư và thứ năm.
– Khớp mũi kiếm – ức: Khớp giữa mỏm mũi kiếm xương ức với thân xương ức, ngang mức với thân đốt sống ngực thứ chín.
– Góc dưới sườn: Nằm ở đầu dưới xương ức, giữa các chỗ bám của các sụn sườn thứ bảy vào xương ức.
– Bờ sườn: Là giới hạn dưới của ngực và do sụn của các xương sườn từ thứ bảy đến thứ mười cùng với đầu của các sụn sườn XI và XII tạo nên; phần thấp nhất của bờ sườn do xương sườn thứ mười tạo nên và nằm ở ngang mức đốt sống thắt lưng thứ ba.
– Các xương sườn: Trừ xương sườn thứ nhất nằm sau xương đòn không thể sờ được, mặt bên của các xương sườn còn lại đều có thể sờ được bằng ngón tay và muốn xác định một xương sườn nào đó thì trước tiên ta luôn phải xác định xương sườn thứ hai tại góc ức.
– Núm vú: Ở nam thường nằm ở khoang gian sườn thứ tư, cách đường giữa khoảng 9 cm; vị trí núm vú của nữ không hằng định.
– Vị trí mỏm tim đập: Thường thấy ở khoang gian sườn thứ năm bên trái, cách đường giữa khoảng 9 cm; dễ sờ thấy hơn khi bệnh nhân ngồi nghiêng ra trước.
– Các nếp nách: Nếp nách trước do bờ dưới cơ ngực lớn tạo nên; nếp nách sau do gân của cơ lưng rộng tạo nên.
1.1.2. Các mốc bề mặt trên mặt sau thành ngực
– Mỏm gai của các đốt sống ngực: Nằm trên đường giữa sau. Đặt ngón tay trỏ vào mặt sau đường giữa cổ và vuốt xuống dưới, mỏm gai đầu tiên sờ thấy được là của đốt sống cổ thứ bảy, dưới nữa là mỏm gai của các đốt sống ngực. Mỏm gai của các đốt sống cổ CI – CVI được dây chằng gáy che phủ. Lưu ý rằng, đỉnh mỏm gai của một đốt sống ngực nằm ngay sau thân của đốt sống kế tiếp bên dưới.
– Xương vai: Góc trên nằm ngang mức mỏm gai của đốt sống ngực thứ hai; gai vai nằm dưới da và rễ của nó ở ngang mức với mỏm gai của đốt sống ngực thứ ba; góc dưới nằm ngang mức với mỏm gai của đốt sống ngực thứ bảy.
1.1.3. Các đường định hướng
– Đường giữa ức: Nằm trên đường giữa xương ức.
– Đường giữa đòn: Đường từ điểm giữa xương đòn chạy thẳng đứng xuống dưới.
– Đường nách trước: Từ nếp nách trước chạy thẳng đứng xuống dưới.
– Đường nách sau: Từ nếp nách sau chạy thẳng đứng xuống dưới.
– Đường nách giữa: Từ một điểm nằm giữa các nếp nách trước và sau chạy thẳng đứng xuống dưới.
– Đường vai: Đường thẳng đứng trên thành ngực sau, đi qua góc dưới của xương vai.
1.1.4. Những mốc trên bề mặt của các cơ quan trong khoang ngực
1.1.4.1. Khí quản
Khí quản đi từ bờ dưới sụn nhẫn, ngang mức đốt sống cổ thứ sáu, tới ngang mức góc ức. Có thể sờ thấy khí quản ở đường giữa nền cổ, tại khuyết trên ức.
1.1.4.2. Phổi
– Đỉnh phổi nhỏ vào nền cổ, vẽ nên một đường cong lồi lên trên đi từ khớp ức – đòn tới một điểm ở khoảng 2,5 cm trên chỗ tiếp nối các 1/3 giữa và trong của xương đòn.
– Bờ trước của phổi bắt đầu ở sau khớp ức đòn và đi xuống dưới và vào trong tới sát gần đường giữa ở sau góc ức. Từ đây nó lại đi xuống dưới và ra ngoài cho tới tận bờ ngoài khớp mỏm mũi kiếm – ức thì liên tiếp với bờ dưới. Bờ trước của phổi trái có đường đi giống như bên phải cho tới ngang mức sụn sườn thứ tư. Từ đây, nó đi lệch sang bên, cách xa bờ bên xương ức một khoảng cách thay đổi để tạo nên khuyết tim rồi đột ngột chạy xuống để liên tiếp với bờ dưới ở ngang mức, nhưng ở bên ngoài, khớp mũi kiếm – ức.
– Bờ dưới của phổi khi hít vào vừa phải đi theo một đường cong bắt chéo xương sườn thứ sáu trên đường giữa đòn, xương sườn thứ tám trên đường nách giữa và xương sườn thứ mười ở cạnh cột sống.
– Bờ sau của phổi chạy dọc mỏm gai của các đốt sống từ cổ VII tới ngực XI nhưng cách đường giữa khoảng 4 cm.
– Khe chếch của phổi chiếu lên bề mặt bằng một đường từ rễ của gai vai đi chếch xuống dưới, sang bên và ra trước, theo đường đi của xương sườn thứ VI, tới chỗ tiếp nối giữa sụn và xương sườn VI.
– Khe ngang của phổi phải được đại diện bằng một đường vạch ngang dọc theo sụn sườn thứ tư cho tới khi gặp khe chếch trên đường nách giữa.
1.1.4.3. Màng phổi thành
– Màng phổi cổ nhô lên trên vào cổ và có mốc bề mặt như của đỉnh phổi.
– Ngách sườn – trung thất của phổi phải đối chiếu lên thành ngực trước giống như của bờ trước phổi phải; ngách sườn – trung thất của phổi trái cũng có khuyết tim như của bờ trước phổi trái nhưng khuyết này không rộng như khuyết tim của phổi, tức là ngách sườn – trung thất ít cách xa bờ bên xương ức hơn so với bờ trước phổi.
– Ngách sườn – hoành hay bờ dưới của màng phổi chạy theo một đường cong; đường này bắt chéo xương sườn thứ tám trên đường giữa đòn và xương sườn thứ X trên đường nách giữa rồi đạt tới xương sườn XII ở sát cạnh cột sống.
1.1.4.4. Tim
Tim được coi như có một đỉnh và bốn bờ:
– Đỉnh tim tương ứng với nơi ta sờ thấy tim đập, ở khoang gian sườn thứ năm bên trái cách đường giữa 9 cm.
– Bờ trên: Nơi có gốc của các mạch máu lớn, chạy từ một điểm trên sụn sườn thứ hai bên trái (ngang góc ức) cách bờ trái xương ức 1,3 cm tới một điểm trên sụn sườn thứ ba phải cách bờ phải xương ức 1,3 cm.
– Bờ phải: Vốn do tâm nhĩ phải tạo nên, từ một điểm trên sụn sườn thứ ba bên phải cách bờ xương ức 1,3 cm đi xuống đến một điểm trên sụn sườn thứ sáu bên phải cách bờ xương ức 1,3 cm.
– Bờ trái: Vốn phần lớn do tâm thất trái tạo nên, đi từ một điểm trên sụn sườn thứ hai trái cách bờ xương ức 1,3 cm tới đỉnh tim.
– Bờ dưới: Do tâm thất phải và phần đỉnh thất trái tạo nên, đi từ sụn sườn thứ sáu bên phải cách bờ ức 1,3 cm tới đỉnh tim.
1.1.4.5. Các mạch máu lớn
Cung động mạch chủ, động mạch cánh tay đầu và động mạch cảnh chung trái nằm sau cán ức. Tĩnh mạch chủ trên và phần tận cùng của các tĩnh mạch cánh tay đầu phải và trái nằm sau cán ức. Các mạch ngực trong chạy thẳng đứng xuống dưới sau các sụn sườn, cách bờ xương ức 1,3 cm, tới tận khoang gian sườn thứ sáu. Các mạch gian sườn và thần kinh gian sườn (theo trình tự từ trên xuống là tĩnh mạch, động mạch và thần kinh) nằm ngay dưới các xương sườn tương ứng.
1.2. Cấu tạo của thành ngực
Thành ngực xương được che phủ trên mặt ngoài bởi da và các cơ gắn đai vai với thân; mặt trong được lót bởi màng phổi thành.
Thành ngực được tạo nên về phía sau bởi đoạn ngực của cột sống, ở trước bởi xương ức và các sụn sườn, ở bên bởi các xương sườn và các khoang gian sườn và ở dưới bởi cơ hoành, cơ ngăn cách khoang ngực với khoang bụng.
2. THÀNH BỤNG
Có thể định nghĩa bụng như là phần của thân nằm giữa cơ hoành ở trên và eo trên ở dưới.
2.1. Giải phẫu bề mặt
Mỏm mũi kiếm: Mỏm này sờ thấy được ở chỗ lõm, nơi mà các bờ sườn gặp nhau tại góc dưới ức. Chỗ tiếp nối mỏm mũi kiếm – ức ngang mức với thân đốt sống ngực thứ chín.
Bờ sườn: Đây là bờ cong bên dưới của thành ngực được tạo nên bởi sụn của các xương sườn VII – X ở trước và sụn của các xương sườn XI – XII ở sau. Nơi thấp nhất của bờ sườn là sụn sườn thứ X, nằm ở ngang mức thân đốt sống thắt lưng thứ ba. Xương sườn thứ XII có thể ngắn và khó sờ thấy.
Mào chậu: Có thể sờ thấy toàn bộ chiều dài mào chậu, từ gai chậu trước – trên tới gai chậu sau – trên; nơi cao nhất của mào chậu ở ngang mức thân đốt sống thắt lưng thứ tư. Ở khoảng 5 cm sau gai chậu trước – trên, mép ngoài mào chậu nhô lên tạo thành củ mào chậu; củ này nằm ngang mức thân đốt sống thắt lưng thứ năm.
Dây chằng bẹn: Đây là bờ dưới cuộn lại của cân cơ chéo bụng ngoài. Nó đi từ gai chậu trước – trên tới củ mu, một mốc xương có thể sờ thấy ở mặt trên thân xương mu.
Khớp mu: Đây là khớp sụn sợi nằm trên đường giữa ở giữa thân của các xương mu.
Điểm giữa bẹn: Đây là điểm nằm trên dây chằng bẹn, ở giữa khớp mu và gai chậu trước – trên. Sờ vào đây có thể thấy được mạch đập của nơi tiếp nối động mạch chậu ngoài với động mạch đùi.
Vòng (lỗ) bẹn nông: Đây là một lỗ nằm trong cân của cơ chéo bụng ngoài, ở trên và trong củ mu. Có thể lấy đầu ngón tay út đẩy da phần trên bìu vào lỗ và sờ thấy được thừng tinh.
Đường trắng: Đây là dải xơ đi từ khớp mu đến mỏm mũi kiếm và nằm trên đường giữa. Nó do cân của các cơ thành bụng trước ở hai bên dính lại với nhau tạo nên và được đại diện trên bề mặt bằng một rãnh nông khó nhận thấy.
Rốn: Rốn nằm trên đường giữa – trước của bụng và hằng định về vị trí.
Đường bán nguyệt: Đường này là bờ bên của cơ thẳng bụng và bắt chéo bờ sườn tại đỉnh của sụn sườn thứ chín.
2.2. Các vùng bụng
Vì mục đích lâm sàng, bụng được chia thành chín vùng bằng hai đường thẳng đứng và hai đường nằm ngang. Mỗi đường thẳng đứng đi qua điểm giữa bẹn. Đường nằm ngang trên, đôi khi được gọi là mặt phẳng dưới sườn, nối điểm thấp nhất của bờ sườn ở hai bên. Đây là bờ dưới của sụn sườn thứ mười và nằm ngang mức với đốt sống thắt lưng thứ ba. Đường ngang dưới, thường được gọi là mặt phẳng gian củ, nối củ của các mào chậu ở hai bên. Mặt phẳng này nằm ngang mức thân của đốt sống thắt lưng thứ năm.
Chín vùng bụng nằm ở ba tầng bụng: ở tầng trên có vùng thượng vị nằm giữa các vùng hạ sườn phải và trái; ở tầng giữa có vùng rốn nằm giữa các vùng thắt lưng phải và trái; ở tầng dưới có vùng hạ vị nằm giữa các vùng hố chậu phải và trái.
Mặt phẳng ngang qua môn vị: Mặt phẳng này thường được dùng trong lâm sàng. Nó đi qua đỉnh của các sụn sườn thứ chín ở hai bên, tức là nơi mà bờ ngoài cơ thẳng bụng (đường bán nguyệt) bắt chéo bờ sườn. Mặt phẳng này đi qua môn vị, chỗ tiếp nối tá – hỗng tràng, cổ tuỵ và rốn của hai thận. Để thấy được cơ thẳng bụng hai bên khi con yêu cầu bệnh nhân ngồi dậy mà không dùng tay.
Mặt phẳng gian mào: Mặt phẳng này đi ngang qua điểm cao nhất của hai mào chậu và nằm ngang mức với thân của đốt sống thắt lưng thứ tư.
Hình 4.1.1. Các mốc bề mặt và các vùng của thành bụng trước
2.3. Mốc bề mặt của các tạng bụng
Vị trí của phần lớn các tạng bụng biến đổi theo cá thể và ở mỗi cá thể lại chịu ảnh hưởng nhiều của tư thế và sự hô hấp. Những cơ quan dưới đây ít nhiều cố định và những mốc bề mặt của chúng có giá trị về lâm sàng.
Gan: Phần lớn gan nằm trong vùng hạ sườn phải, dưới sự che phủ của các xương sườn dưới và vùng thượng vị. Ở trẻ em, cho tới cuối tuổi thứ ba, bờ dưới gan vượt quá bờ sườn 1 hoặc 2 bề ngang ngón tay. Ta không sờ được gan ở người lớn mà béo hoặc có cơ thẳng bụng phát triển. Ở một người lớn gầy, nhất là khi hít vào sâu, bờ dưới gan có thể ở thấp hơn bờ sườn tới một bề ngang ngón tay.
Túi mật: Đáy túi mật nằm ở nơi mà bờ ngoài cơ thẳng bụng bắt chéo bờ sườn, tức ngang với đầu sụn sườn thứ chín bên phải.
Lách: Lách nằm trong vùng hạ sườn trái dưới sự che phủ của các xương sườn IX-XI. Trục dọc của nó tương ứng với trục của xương sườn thứ mười và ở người lớn thường không nhỏ ra trước quá đường nách giữa. Có thể sờ thấy được đầu dưới của lách trẻ em.
Tuỵ: Tuỵ nằm dọc mặt phẳng ngang qua môn vị: đầu tuỵ nằm về phía dưới và bên phải, cổ nằm trên mặt phẳng, còn thân và đuôi nằm ở trên (cao hơn) và bên trái.
Thận: Thận phải nằm hơi thấp hơn thận trái (do gan) và có thể sờ thấy đầu dưới của nó ở vùng thắt lưng phải vào cuối thì hít vào sâu ở một người gầy có hệ cơ bụng kém phát triển. Mỗi thận dịch chuyển khoảng 2,5 cm theo hướng thẳng đứng trong cử động hô hấp đầy đủ của cơ hoành. Không sờ thấy thận trái bình thường. Trên thành bụng trước, rốn thận nằm trên mặt phẳng ngang qua môn vị, cách đường giữa khoảng ba bề ngang ngón tay. Trên thành lưng, thận đi từ ngang mức mỏm gai đốt sống ngực thứ mười hai đến ngang mức mỏm gai đốt sống thắt lưng thứ ba và rốn thận ở ngang mức đốt sống thắt lưng thứ nhất.
Động mạch chủ: Động mạch chủ nằm trên đường giữa của bụng và chia thành các động mạch chậu chung ở ngang mức đốt sống thắt lưng thứ tư, tức là trên mặt phẳng gian mào.
2.4. Cấu tạo của thành bụng
Thành bụng trước – bên chủ yếu cấu tạo bằng các cơ chạy từ các xương sườn tới chậu hông; thành bụng sau chủ yếu do cột sống và các cơ gắn liền với nó tạo nên, riêng phần dưới do cánh của hai xương chậu.
Về phía trên, thành bụng do cơ hoành, cơ ngăn khoang ngực với khoang bụng, tạo nên; vì cơ hoành cong nối lên trên nên nó và phần dưới thành ngực vây quanh các tạng ở phần trên ổ bụng, tức là tạo nên phần trên của thành bụng. Ở dưới, khoang bụng liên tiếp với khoang chậu hông qua eo chậu trên (có thể coi khoang chậu hông như một phần của khoang bụng). Về phía trước, thành bụng được tạo nên ở trên bởi phần dưới của thành ngực và ở dưới bởi các cơ thẳng bụng, chéo bụng ngoài, chéo bụng trong và ngang bụng. Thành bụng sau được tạo nên trên đường giữa bởi cột sống thắt lưng; ở mỗi bên bởi xương sườn XII, phần trên chậu hông xương, cơ thắt lưng chậu, cơ vuông thắt lưng và cân nguyên uỷ của cơ ngang bụng. Thành bụng bên được tạo nên ở trên bởi phần dưới thành ngực và ở dưới bởi các cơ chéo bụng ngoài, chéo bụng trong và ngang bụng.
Các lớp của thành bụng trước bên
Da và mạc nông: Các đường xẻ tự nhiên trên da chạy theo chiều ngang. Các đường rạch ở da bụng theo chiều ngang chỉ để lại vết sẹo nhỏ. Mạc nông, hay mô hoặc tấm dưới da, có thể được chia thành một lớp mỡ nông và một lớp màng (bằng mô xơ) ở sâu, nhất là ở phần dưới. Lớp mỡ có thể rất dày ở người béo phì. Mạc nông liên tiếp ở dưới qua dây chằng bẹn với tấm dưới da của đùi và lớp màng của nó dính với mạc đùi. Ở giữa hai đùi, mạc nông liên tiếp với tấm dưới da của bìu (hay môi lớn) và của đáy chậu.
Da thành bụng trước – bên được chi phối bởi các nhánh bì bên và các nhánh bì trước của nhánh trước sáu thần kinh ngực dưới; mỗi nhánh bì bên lại chia thành hai nhánh: nhánh trước chạy về phía rốn và nhánh sau chạy về phía lưng. Phần dưới cùng của thành bụng, ở trên dây chằng bẹn và khớp mu, được chi phối bởi nhánh bì trước của thần kinh chậu – hạ vị. Các nhánh chính của nhánh trước các thần kinh ngực dưới (các thần kinh gian sườn và thần kinh dưới sườn) chạy giữa cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng và các nhánh bì do chúng tách ra phải xuyên qua các cơ chéo bụng để đi vào mạc nông. Da bụng bên được cấp máu bởi các nhánh bì bên của các mạch gian sườn sau, dưới sườn và thắt lưng; da thành bụng trước được cấp máu bởi các nhánh bì trước đi kèm với các thần kinh bì trước nhưng tách ra từ các mạch thượng vị trên và dưới. Da phần dưới thành bụng trước được cấp máu bởi các mạch mũ chậu nông và thượng vị nông, nhánh của các mạch đùi. Các tĩnh mạch của da bụng hướng về và tiếp nối với nhau ở rốn. Mạng lưới tĩnh mạch quanh rốn tiếp nối với tĩnh mạch cửa qua các tĩnh mạch cạnh rốn.
Mạc sâu: Mạc sâu phủ trên các cơ chỉ là một lớp mô liên kết mỏng.
Các cơ: Các cơ của thành bụng trước bên bao gồm các cơ chéo bụng ngoài, chéo bụng trong, ngang bụng, thẳng bụng và tháp (xem bài Các cơ và mạc của thân). Nhánh trước của sáu thần kinh ngực dưới và thần kinh thắt lưng thứ nhất nằm giữa cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng. Các động mạch thượng vị dưới và trên đi sau cơ thẳng bụng, trong bao cơ.
Lớp mạc: Mặt trong thành cơ của bụng được phủ bởi lớp mạc liên tiếp ở dưới với lớp mạc tương tự lót thành chậu hông. Lớp mạc này được phân chia và gọi tên theo cấu trúc mà nó che phủ: mạc hoành phủ mặt dưới cơ hoành, mạc ngang phủ thành bụng trước bên (chủ yếu do cơ ngang bụng tạo nên), mạc thắt lưng phủ cơ thắt lưng, mạc chậu phủ cơ chậu. Lớp mạc ngăn cách với phúc mạc bằng lớp mô ngoài phúc mạc chứa nhiều mỡ.
Phúc mạc: Thành bụng được lót bằng phúc mạc thành; nó liên tiếp ở dưới với phúc mạc thành chậu hông.
3. ỐNG BẸN
Dây chằng bẹn và lỗ bẹn nông: Cơ chéo bụng ngoài có một bờ tự do nằm giữa gai chậu trước – trên và củ mu. Bờ này cùng các sợi collagen tạo nên dây chằng bẹn. Phần gân cơ chéo bụng ngoài bám vào thân xương mu (từ củ mu trở vào) không liên tục mà bị xẻ thành hai trụ, trụ ngoài và trụ trong.
Khe hở hình tam giác giữa hai trụ được các sợi gian trụ và các sợi từ chỗ bám của trụ ngoài quật lên đường trắng (dây chằng phản chiếu) viền tròn lại tạo nên lỗ bẹn nông.
Liềm bẹn: Những sợi dưới cùng của cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng bám vào dây chằng bẹn: cơ chéo bụng trong vào 1/2 ngoài, cơ ngang bụng vào 1/3 ngoài. Từ đó các sợi của hai cơ này chạy vào trong ở trên dây chằng bẹn và hợp nên liềm bẹn. Liềm bẹn vòng xuống ở sau lỗ bẹn nóng rồi bám vào mào mu và lược xương mu. Như vậy, giữa liềm bẹn và nửa trong dây chằng bẹn có một khe hở cơ chạy chếch xuống dưới và vào trong, đầu trong của khe thông với lỗ bẹn nông, ở trước khe là cân cơ chéo bụng ngoài, ở sau là mạc ngang. Trên mạc ngang có một đường dày lên gọi là dây chằng liên hố; dây chằng này có đầu trên liên tiếp với đường cung, đầu dưới dính vào dây chằng bẹn ở ngang mức với đầu ngoài khe hở cơ. Từ bờ ngoài của dây chằng liên hố, mạc ngang chĩu xuống thành một túi đi qua khe hở cơ và lỗ bẹn nông để xuống bìu – bọc quanh tinh hoàn. Điểm mà mạc ngang bắt đầu chĩu xuống được gọi là lỗ bẹn sâu.
Hình 4.1.2. Ống bẹn và thừng tinh
Khe hở cơ nói trên được gọi là ống bẹn. Thành phần quanh ống là các thành, các đầu ống là các lỗ bẹn. Như vậy: thành trước là cân cơ chéo bụng ngoài và một phần cơ chéo bụng trong; thành sau là mạc ngang, mô ngoài phúc mạc và phúc mạc; thành trên là liềm bẹn và thành dưới là dây chằng bẹn. Các thành phần đi qua ống bẹn là thừng tinh ở nam và dây chằng tròn ở nữ.
Hình 4.1.3. Lỗ bẹn sâu
Hình 4.1.4. Thiết đồ nằm ngang qua trục ống bẹn
Trên thành sau của ống bẹn, có ba thành phần đi trong mô mỡ giữa mạc ngang và phúc mạc, tính từ giữa sang bên là: dây chằng rốn giữa, thừng động mạch rốn và động mạch thượng vị dưới. Các thành phần này đội phúc mạc lên thành ba nếp rốn, cũng kể từ giữa sang bên là: nếp rốn giữa, nếp rốn trong (gần giữa) và nếp rốn ngoài (bên). Các nếp rốn giới hạn nên ba hố phúc mạc: hố bẹn ngoài (bên) nằm ngoài nếp rốn ngoài, hố bẹn trong (giữa) nằm giữa nếp rốn ngoài và nếp rốn trong và hố trên bàng quang nằm giữa nếp rốn trong và nếp rốn giữa. Ruột hoặc mạc nối lớn có thể đi qua khe hở cơ của thành bụng để đi vào bìu, gây nên tình trạng gọi là thoát vị bẹn. Thoát vị bẹn xảy ra ở hố bẹn ngoài được gọi là thoát vị bẹn gián tiếp, ở hố bẹn trong hoặc hố trên bàng quang (hiếm gặp) gọi là thoát vị bẹn trực tiếp.
Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC
Tham gia nhóm zalo: Tài Liệu Y Học Tổng Hợp
Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY