Bài 30
ĐẠI CƯƠNG VỀ HỆ THẦN KINH, CÁC MÀNG NÃO TUỶ
MỤC TIÊU1. Trình bày được những kiến thức chung nhất về hệ thần kinh: tế bào và mô thần kinh, các loại nơron và mối liên hệ giữa các nơron, các phần của hệ thần kinh, cấu tạo của thần kinh trung ương và ngoại vi… 2. Mô tả được các màng não – tuy. 3. Nêu được những liên hệ chức năng và lâm sàng thích hợp. |
1. ĐẠI CƯƠNG
Hệ thần kinh – một mạng lưới phức tạp, có tổ chức cao của hàng tỷ nơron – có ba chức năng cơ bản là cảm giác (thu nhận các kích thích từ bên ngoài và bên trong cơ thể, dẫn truyền các thông tin cảm giác về cơ quan phân tích), xử lý thông tin (phân tích, tổng hợp các thông tin đưa vào để đưa ra quyết định và lưu giữ thông tin nếu cần) và vận động (thực hiện những đáp ứng thích hợp trước các kích thích. Hệ thần kinh là cơ sở vật chất của nhận thức và trí nhớ; nó khởi phát tất cả các vận động theo ý muốn.
1.1. Tế bào và mô thần kinh
Mô thần kinh do các nơron và các tế bào thần kinh đệm tạo nên.
1.1.1. Nơron hay tế bào thần kinh chính thức
Hình 30.1. Nơron chính thức
Đơn vị cấu tạo nên mô thần kinh là tế bào thần kinh, hay còn được gọi là nơron. Mỗi nơron bao gồm một thân và các nhánh từ thân mọc ra là nhánh (sợi) trục và các nhánh gai. Đặc điểm của nơron là có khả năng phát ra và dẫn truyền xung động thần kinh dọc theo thân và các nhánh của chúng. Xung động từ nhánh gai được dẫn truyền về thán, xung động từ thân được dẫn truyền tới đầu tận cùng của nhánh trục.
Các thân nơron có hình dạng và kích thước khác nhau. Trong bào tương của thân nơron có những đám lưới nội nguyên sinh tạo thành các thể Nissl. Thân nơron là thành phần chính tạo nên chất xám của hệ thần kinh. Những khối chất xám trong não và tuy sống mà có cùng chức năng được gọi là nhân, những khối chất xám ở thần kinh ngoại vi được gọi là hạch.
Mỗi nơron chỉ có một nhánh trục nhưng số nhánh gai thì thay đổi tuỳ loại nơron. Nhánh gai thường ngắn hơn nhánh trục và phân nhánh nhiều. Nơron có một nhánh gai và một nhánh trục là nơron hai cực, có từ hai nhánh gai trở lên là nơron đa cực. Nơron của các hạch cảm giác ngoại vi chỉ có một nhánh từ thân mọc ra nên được gọi là nơron một cực; nhánh này rời thân một đoạn ngắn thì chia thành một nhánh chạy ra ngoại vi, một nhánh chạy vào thân não và tuỷ sống, cả hai nhánh có đặc điểm cấu tạo của nhánh trục (ta vẫn quen gọi nhánh chạy ra ngoại vi là nhánh gai). Hầu hết các nhánh trục được bọc bằng một bao chất béo, có màu trắng, gọi là bao myelin; các nhánh gai thường không có bao myelin; các nhánh có bao myelin tạo nên chất trắng của hệ thần kinh. Chất trắng trong thần kinh trung ương được chia thành các bó: nếu các sợi trong một bó có cùng điểm xuất phát, cùng điểm tận cùng và dẫn truyền cùng loại thông tin thì bó đó được gọi là dải. Những bó chất trắng (nhánh trục) ở thần kinh ngoại vi được gọi là thần kinh hay dây thần kinh. Những nhánh trục và gai mà không có bao myelin có mặt ở cả chất xám của hệ thần kinh. Ở các thần kinh ngoại vi, các nhánh trục còn được bọc bằng một bao gọi là bao Schwann do các tế bào Schwann tạo nên.
1.1.2. Các tế bào thần kinh đệm
Hình 30.2. Các tế bào thần kinh đệm của hệ thần kinh trung ương
Các tế bào thần kinh đệm khác với các tế bào thần kinh chính thức ở chỗ chúng không có tính dễ bị kích thích và dẫn truyền mà chỉ đóng vai trò chống đỡ và nuôi dưỡng cho các tế bào thần kinh chính thức. Các tế bào thần kinh đệm trong thần kinh trung ương bao gồm: các đại bào đệm, các tế bào sao, các tế bào ít nhánh, các tế bào nội tuỷ và các vi bào đệm; chúng tạo nên khoảng một nửa thể tích của thần kinh trung ương. Các tế bào sao ngăn cách các mạch máu với nơron thần kinh, cùng với thành mạch tạo nên hàng rào máu – não; các tế bào ít nhánh tạo nên bao myelin của các sợi trục trong thần kinh trung ương. Loại tế bào thần kinh đệm có mặt phổ biến ở thần kinh ngoại vi là tế bào Schwann; chúng tạo nên bao myelin và bao Schwann của các nhánh trục. Cho đến nay, sự hiểu biết về chức năng của các tế bào thần kinh đệm chưa đầy đủ và chưa thống nhất.
1.2. Các loại nơron
1.2.1. Nơron cảm giác
Hình 30.3. Cung phản xạ của tủy
Thân của các nơron cảm giác là tế bào một cực nằm ở hạch cảm giác của các dây thần kinh sọ và thần kinh sống ở bên ngoài thần kinh trung ương. Các nhánh đi ra ngoại vi (mà ta quen gọi là nhánh gai), tạo thành dây thần kinh cảm giác hoặc thành phần cảm giác của các dây thần kinh hỗn hợp; chúng chia nhánh và đầu tận cùng của mỗi nhánh là bộ phận tiếp nhận cảm giác nằm ở da, niêm mạc, các nội tạng và trong cơ; bộ phận cảm giác ở một số giác quan chuyên biệt là các tế bào đặc biệt kết hợp với đầu tận cùng của các nhánh gai mà không phải đơn thuần là đầu tận cùng của nhánh gai. Các sợi trục chạy về tuỷ sống và não. Những cảm giác truyền về tuỷ sống và thân não được các nơron cảm giác ở hai phần này dẫn truyền tới tiểu não hoặc đại não, hoặc được các nơron liên hợp tiếp nhận và xử lý.
1.2.2. Nơron vận động
Các thân nơron vận động cơ bám xương nằm ở nhân vận động thần kinh sọ và thần kinh sống (nơron vận động dưới); chúng tiếp nhận xung động từ nơron nằm ở vỏ đại não (nơron vận động trên) đi xuống. Sợi trục của các nơron vận động dưới đi tới các cơ, tạo nên các dây thần kinh vận động hoặc thành phần vận động của các dây thần kinh hỗn hợp. Các thân nơron vận động cơ trơn, cơ tim và các tuyến nằm ở các nhân tự chủ trong thần kinh trung ương và các hạch tự chủ ở ngoại vi.
1.2.3. Nơron liên hợp
Các nơron liên hợp nằm trong não và tuỷ sống, chiếm tới 90% số nơron của thần kinh trung ương. Chúng nằm giữa các nơron cảm giác và các nơron vận động, đóng vai trò trung tâm tích hợp.
1.2.4. Mối liên hệ giữa các nơron
Về mặt giải phẫu, giữa đầu tận cùng nhánh trục của nơron này và thân hoặc nhánh gai của nơron kia có một khoảng gián đoạn hẹp gọi là synap. Khi xung động thần kinh đi tới đầu tận cùng nhánh trục thì đầu này giải phóng ra các chất dẫn truyền thần kinh đi qua khe synap đến tác động và gây ra xung động ở nơron tiếp sau. Theo cách này, xung động thần kinh được dẫn truyền liên tục qua hàng loạt nơron. Nhờ hệ thần kinh, cơ thể có được những đáp ứng thích hợp trước những thay đổi (kích thích) của môi trường. Sự đáp ứng này gọi là phản xạ. Về bản chất, một phản xạ là luồng dẫn truyền liên tục của xung động thần kinh qua các loại nơron kể trên theo một chiều nhất định. Con đường mà xung động thần kinh đi qua gọi là cung phản xạ. Một cung phản xạ đầy đủ bao gồm 5 thành phần: 1. bộ phận tiếp nhận cảm giác, 2. nơron cảm giác,3. một hoặc nhiều nơron liên hợp, 4. nơron vận động và 5. bộ phận thực hiện đáp ứng phản xạ (cơ hoặc tế bào tuyến). Bộ phận tiếp nhận cảm giác là đầu tận cùng của nhánh gai hoặc tế bào cảm thụ đặc biệt liên hệ với đầu tận cùng nhánh gai. Số nơron trung gian thay đổi theo mức độ phức tạp của phản xạ. Phản xạ càng phức tạp thì càng nhiều nơron trung gian; ở phản xạ đơn giản nhất, nơron cảm giác liên hệ thẳng với nơron vận động, không có nơron trung gian.
1.3. Sự phân chia hệ thần kinh
Hệ thần kinh được chia thành hai phần: phần (hay hệ) thần kinh trung ương và phần (hay hệ) thần kinh ngoại vi.
Phần trung ương bao gồm não và tuỷ sống; phần ngoại vi bao gồm các hạch, các dây thần kinh và các bộ phận tiếp nhận cảm giác nằm ngoài thần kinh trung ương. Trong phần thần kinh ngoại vi, các hạch và các sợi thần kinh tự chủ (chi phối cơ trơn, cơ tim và các tuyến) hợp nên phần tự chủ của thần kinh ngoại vi. Ở vùng hạ đồi, một số nơron vừa có khả năng tiếp nhận và dẫn truyền xung động, vừa có khả năng chế tiết ra các hormon để giải phóng vào hệ tuần hoàn; chúng được gọi là thần kinh tiết (xem Hệ nội tiết).
1.4. Sự thoái hoá và tái tạo thần kinh
Nhánh trục của thần kinh ngoại vi được bọc bằng bao Schwann (ở ngoài) và bao myelin (ở trong). Khi nhánh trục và các bao bị đứt, đoạn nhánh trục và bao myelin ở sau chỗ đứt bị thoái hoá. Nếu các đầu chỗ đứt áp sát nhau, các đầu của bao Schwann liền lại tạo nên một ống rỗng; đoạn nhánh trục ở trước chỗ đứt mọc dài ra tiến vào ống rỗng này, bao Schwann tạo nên bao myelin mới và nhánh trục được tái sinh. Nhánh trục trong thần kinh trung ương không tái tạo theo cách này được vì không có bao Schwann. Sự tái tạo các nơron mới từ các tế bào mầm còn đang được nghiên cứu.
2. PHẦN NGOẠI VI CỦA HỆ THẦN KINH
2.1. Đại cương
Những dây thần kinh và những hạch nằm ngoài thần kinh trung ương tạo nên phần ngoại vi của hệ thần kinh. Tuỳ theo vị trí nguyên uỷ, các dây thần kinh ngoại vi được phân chia thành: các dây thần kinh sọ, gồm mười hai đôi thoát ra từ não và các dây thần kinh sống, gồm 31 đôi thoát ra từ tuỷ sống. Phần tự chủ của hệ thần kinh ngoại vi bao gồm các hạch tự chủ và các sợi thần kinh tự chủ đi lẫn trong các dây thần kinh sọ và sống.
Mỗi dây thần kinh do các sợi thần kinh tạo nên. Mỗi sợi thần kinh chính là mỏm kéo dài của một tế bào thần kinh mà thân tế bào của nó nằm trong thần kinh trung ương hoặc trong một hạch nào đó của thần kinh ngoại vi. Về mặt chức năng, ta có thể gặp ba loại sợi thần kinh trong các thần kinh ngoại vi:
Các sợi thần kinh đi hay sợi vận động dẫn truyền các xung động từ thần kinh trung ương tới các cơ bám xương. Thân tế bào của các sợi này nằm ở chất xám của tuỷ sống và thân não.
Các sợi thần kinh đến hay sợi cảm giác dẫn truyền các xung động phát sinh từ những bộ phận thụ cảm khác nhau ở da, cơ, khớp và các giác quan đặc biệt tới thần kinh trung ương. Thân tế bào của các sợi này nằm ở hạch cảm giác của các thần kinh sọ và thần kinh sống.
Các sợi thần kinh tự chủ đi lẫn trong thần kinh ngoại vi đảm nhiệm việc chi phối hoạt động của các cơ trơn, cơ tim và các tuyến. Những sợi này cũng là các sợi đi (vận động) mà thân tế bào của chúng nằm ở thân não và tuỷ sống (sợi trước hạch) hoặc ở hạch tự chủ ngoại vi (sợi sau hạch). Những sợi không thuộc hệ tự chủ trong dây thần kinh ngoại vi được gọi là các sợi thần kinh thân thể.
Trong mỗi dây thần kinh, các sợi thần kinh hợp thành các bó. Sợi thần kinh, bó sợi thần kinh và cả dây thần kinh đều được mô liên kết bao bọc: lớp mô liên kết mỏng bọc quanh mỗi sợi thần kinh là màng trong thần kinh. Lớp mô liên kết bao quanh một bó sợi thần kinh là màng quanh thần kinh. Màng trên thần kinh là lớp mô liên kết bao quanh một dây thần kinh.
2.2. Các thần kinh sống
Có 31 đôi dây thần kinh sống rời khỏi ống sống qua các lỗ gian đốt sống. Các lỗ gian đốt sống do các đốt sống kế cận nhau tạo nên. Các thần kinh sống được gọi tên và phân nhóm theo các đốt sống có liên quan với chúng: tám đôi dây thần kinh sống cổ, mười hai đôi thần kinh sống ngực, năm đôi thần kinh sống thắt lưng, năm đội thần kinh sống cùng và một đôi thần kinh sống cụt.
Mặc dù chỉ có bảy đốt sống cổ nhưng lại có tám đôi thần kinh sống cổ vì đôi thứ nhất rời khỏi ống sống ở giữa xương chẩm và đốt cổ I, và đôi thứ tám thoát ra ở dưới đốt sống cổ VII. Từ đó trở xuống, các thần kinh sống được gọi tên và mang số của đốt sống nằm ngay phía trên.
Các thần kinh sống thắt lưng, cùng và cụt thoát ra khỏi tuỷ sống ở đoạn cuối của tuỷ sống (đoạn ở ngang mức đốt sống thắt lưng I). Chúng chạy xuống dưới bên trong ống sống và trong khoang dưới nhện, tạo nên một bó thần kinh trông giống như đuổi ngựa nên được gọi là đuôi ngựa. Các thần kinh này rời khỏi ống sống ở ngang mức bờ dưới các đốt sống thắt lưng và cùng tương ứng.
Mỗi thần kinh sống được tạo nên bởi sự kết hợp của hai rễ. Rễ trước hay rễ vận động do các sợi thần kinh đi tạo nên. Về thực chất, các sợi này chính là nhánh trục của những nơron thần kinh ở cột trước chất xám tuỷ sống. Ngoài ra, ở đoạn tuỷ ngực và thắt lưng trên, rễ trước còn chứa các sợi thần kinh tự chủ trước hạch mà bản chất là các nhánh trục của những tế bào cột bên của chất xám tuỷ sống. Rễ sau hay rễ cảm giác do các sợi thần kinh đến tạo nên. Trên rễ sau có hạch cảm giác thần kinh sống hay hạch sống. Hạch này chứa các nơron một cực. Những nhánh ngoại vi của các nơron hạch phân bố tới các cấu trúc (tạng và thân thể) ở ngoại vi, những nhánh trung ương chạy qua rễ sau vào tuỷ sống. Những xung động cảm giác từ ngoại vi chạy vào thần kinh trung ương theo các nhánh này.
Khi chưa phân chia, thần kinh sống được gọi là thân thần kinh sống. Ngay sau khi ló ra từ lỗ gian đốt sống, mỗi thân thần kinh sống chia ra thành bốn nhánh:
Nhánh màng tuỷ hay nhánh quật ngược;
Nhánh thông là nhánh nối thân thần kinh sống với thân giao cảm. Có hai loại nhánh thông: nhánh trắng chứa các sợi giao cảm trước hạch từ dây thần kinh sống chạy tới các hạch của thân giao cảm, nhánh xám chứa các sợi giao cảm sau hạch từ các hạch của thân giao cảm chạy tới dây thần kinh sống;
Nhánh sau đi ra sau rồi chia thành các nhánh trong và ngoài để chi phối cho da và các cơ sâu ở mặt sau đầu, cổ và thân;
Hình 30.4. Các kết nối thần kinh của tủy sống
Nhánh trước chi phối cho mặt trước – bên của đầu, cổ, thân, chi trên và chi dưới. Các nhánh trước của các thần kinh sống cổ, thắt lưng và cùng nối lại với nhau ở gần nguyên uỷ của chúng để tạo thành các đám rối cổ thắt lưng, cùng và cụt. Tại các đám rối này, các sợi thần kinh được nhóm lại và sắp xếp lại trước khi tiếp tục đến chi phối cho da, xương, cơ và khớp. Những dây thần kinh từ các đám rối đi ra được đặt tên theo vùng mà chúng chi phối hoặc theo vị trí và đường đi của chúng. Những nhánh trước của các thần kinh sống ngực II – XII không tham gia tạo thành các đám rối và được gọi là các thần kinh gian sườn. Chúng chi phối cho cơ và da của thành ngực trước – bên và thành bụng trước – bên (NVII – NXII).
2.3. Các màng não – tuỷ
Não và tuỷ sống được bao bọc bởi ba lớp màng từ ngoài vào là màng cứng, màng nhện và màng mềm. Những màng này có tác dụng nâng đỡ, nuôi dưỡng và bảo vệ cho não – tuỷ. Giữa màng nhện và màng mềm có một khoang chứa đầy dịch não tuỷ.
Hình 30.5. Các màng não
2.3.1. Màng cứng
Màng não cứng. Màng não cứng cấu tạo bằng mô liên kết collagen. Mặt ngoài của nó dính với cốt mạc nội sọ, trừ những nơi có xoang tĩnh mạch màng cứng đi giữa màng cứng và xương sọ (cũng có những mô tả cho rằng cốt mạc nội sọ là lớp ngoài của màng não cứng). Mặt trong có những vách đi vào trong ngăn cách các phần của não: liềm đại não ngăn cách hai bán cầu đại não, lều tiểu não ngăn cách đại não với tiểu não, liềm tiểu não ngăn cách hai bán cầu tiểu não, hoành yên tạo thành mái hố tuyến yên. Các xoang tĩnh mạch màng cứng đi giữa màng cứng và cốt mạc nội sọ (thường dọc theo chỗ bám của các vách màng cứng vào xương sọ) hoặc đi trong màng cứng. Xoang tĩnh mạch màng cứng chỉ được lỗi bên trong bằng lớp nội mô.
Màng tuỷ cứng. Màng tuỷ cứng không dính với thành xương xung quanh như màng não cứng mà ngăn cách với thành ống sống bằng khoang ngoài cứng, một khoang chứa mỡ và đám rối tĩnh mạch sống. Nó cũng không có những vách tiến vào trong và không có xoang tĩnh mạch như màng não cứng. Trông toàn bộ, màng tủy cứng như một túi kéo dài từ quanh lỗ chẩm tới ngang đốt sống cùng II. Từ đây trở xuống, nó bao quanh dây tận rồi dính vào xương cụt.
Hình 30.6. Các màng tủy
2.3.2. Màng nhện
Đây là một màng mỏng nằm giữa màng cứng và màng mềm nhưng ngăn cách với màng mềm bằng khoang dưới nhện chứa đầy dịch não tuỷ. Có những dải mô liên kết băng qua khoang dưới nhện nổi màng nhện với màng mềm. Màng nhện não áp sát mặt trong màng não cứng và bề mặt các vách màng não cứng; màng nhện tuỷ lót mặt trong ống màng cứng. Khoang dưới nhện của não có những chỗ giãn rộng, tạo nên các bể dưới nhện. Khoang này thông với hệ thống não thất qua các lỗ giữa và bên ở mái não thất bốn, và liên hệ với các xoang tĩnh mạch màng cứng bằng các hạt màng nhện. Hạt màng nhện là những mỏm của màng nhện lồi vào xoang màng cứng có tác dụng dẫn lưu dịch não tuỷ từ khoang dưới nhện về xoang tĩnh mạch.
2.3.3. Màng mềm
Màng mềm là màng mô liên kết chứa nhiều vi mạch bọc sát bề mặt não và tuỷ sống. Màng não mềm lách cả vào các khe của bán cầu não; nó dày lên ở quanh các não thất và tạo nên các tấm mạch mạc và các đám rối mạch mạc. Màng tuỷ mềm trở thành dây tận kể từ đỉnh nón tuỷ trở xuống. Màng mềm có vai trò nuôi dưỡng các nơion của não và tuỷ sống.
Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC
Tham gia nhóm zalo: Tài Liệu Y Học Tổng Hợp
Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY