Bài 31
TUỶ SỐNG
MỤC TIÊU1. Mô tả được vị trí, giới hạn, kích thước, phân đoạn, hình thể ngoài và cấu tạo của tuỷ sống. 2. Trình bày được những tiếp nối của tuỷ sống với thần kinh ngoại vi và phần còn lại của thần kinh trung ương. 3. Nêu được những liên hệ chức năng và lâm sàng thích hợp |
1. VỊ TRÍ VÀ KÍCH THƯỚC
Hình 31.1. Liên quan của các rễ thần kinh tủy sống với đốt sống
Tuỷ sống là phần thần kinh trung ương nằm trong ống sống nhưng không chiếm hết chiều dài ống sống. Ở trên, tuỷ sống liên tiếp với hành não ở ngang mức bờ trên đốt sống cổ I; đầu dưới tuỷ sống ở ngang mức bờ trên đốt sống thắt lưng II. Ống sống có những đoạn cong nhưng tuỷ sống lại có xu hướng chạy thẳng. Dây tận cùng chạy tiếp theo tuỷ sống qua phần dưới ống sống tới tận xương cụt. Đoạn ống sống ở dưới đốt sống thắt lưng II chỉ có dây tận cùng và các rễ thần kinh sống từ thắt lưng II trở xuống. Do vậy, thường chọc vào ống sống để lấy dịch não tuỷ ở đoạn này, tốt nhất là ở giữa các đốt sống thắt lưng IV và V.
Bao quanh tuỷ sống là các màng tuỷ và dịch não tuỷ; khoảng nằm giữa màng tuỷ cứng và ống sống chứa mỡ và các búi tĩnh mạch.
Tuỷ sống dài 45 cm, nặng 30 gam; đường kính của tuỷ sống thay đổi theo từng đoạn.
Hình 31.2. Hình thể ngoài tủy sống
2. HÌNH THỂ NGOÀI
Tủy sống có hình trụ dẹt, màu trắng xám, có hai chỗ phình là phình cổ tương ứng với nguyên uỷ đám rối thần kinh cánh tay và phình thắt lưng – cùng tương ứng với nguyên uỷ đám rối thần kinh thắt lưng – cùng. Đầu dưới của tuỷ sống thu hẹp lại như một hình nón nên được gọi là nón tuỷ.
Tuỷ sống được chia thành 5 đoạn và nhiều đốt.
Đoạn cổ gồm tám đốt, là nơi thoát ra các đôi rễ thần kinh cổ I – VIII.
Đoạn ngực gồm mười hai đốt, là nơi thoát ra các đội rễ thần kinh ngực I – XII.
Đoạn thắt lưng gồm năm đốt, là nơi thoát ra các đôi rễ thần kinh thắt lưng I – V.
Đoạn cùng gồm năm đốt, là nơi thoát ra các đôi rễ thần kinh cùng I – V.
Đoạn cụt gồm ba đốt là nơi thoát ra các đôi rễ thần kinh cụt I – III. Thường thì các rễ thần kinh cụt II và III kém phát triển nên trên thực tế chỉ có tổng cộng ba mốt đội rễ thần kinh sống.
Hình ngoài tuỷ sống được chia thành hai nửa bởi khe giữa – trước và rãnh giữa – sau. Khe thì sâu và rộng, có màng tuỷ mềm lách vào; rãnh thì nông, tiếp giáp với vách giữa – sau.
Mặt bên của mỗi nửa tuỷ sống có hai rãnh: rãnh bên – trước, nơi thoát ra các rễ trước, và rãnh bên – sau, nơi đi vào của các rễ sau. Các rãnh bên lại chia mỗi nửa tuỷ sống thành 3 thừng: thừng trước ở giữa khe giữa – trước và rãnh bên – trước; thừng bên ở giữa các rãnh bên trước và sau; và thừng sau ở giữa rãnh bên – sau và rãnh giữa – sau. Ở các đoạn tuy cổ và ngực trên, giữa thừng sau còn có rãnh trung gian sau ngăn cách bó thon và bó chêm.
3. HÌNH THỂ TRONG
Hình 31.3. Thiết đồ ngang qua tủy sống
Tuỷ sống là nơi đi qua của các bó chất trắng dẫn truyền xung động thần kinh từ ngoại vi về não và ngược lai; tuỷ sống cũng là trung tâm của phản xạ tuỷ. Tuỷ sống được cấu tạo bằng chất trắng bọc ở ngoài và chất xám ở trong; ở giữa chất xám có ống trung tâm.
3.1. Chất xám
Trên thiết đồ cắt ngang qua tuỷ sống, chất xám có hình chữ H, mỗi bên có ba chỗ lồi được gọi là các sừng: sừng trước, sừng bên và sừng sau. Các sừng chạy liên tục theo chiều dài của tuỷ sống tạo nên các cột chất xám: cột trước, cột sau và cột trung gian nằm giữa các cột trước và sau. Các sừng chính là mặt cắt của các cột; riêng sừng bên là phần lồi sang phía bên của cột trung gian ở đoạn tuỷ từ ngực I đến thắt lưng III. Vùng chất xám nằm ngang nối cột trung gian ở hai bên được gọi là mép xám.
Ống trung tâm: nằm giữa mép xám, chia mép xám thành mép xám trước và mép xám sau. Ống chạy dọc suốt chiều dài tuỷ sống, đầu trên thông với não thất bốn, phần nằm trong nón tuỷ phình rộng gọi là thất tận cùng.
Sừng trước chứa thân của các nơron vận động mà nhánh trục của chúng đi tới các cơ bám xương. Đây cũng là nơi tận cùng của các sợi của các dải vỏ – tuỷ và các dải đi xuống khác. Các nơron trong cột trước tạo thành nhiều nhân.
Sừng sau được chia từ sau ra trước thành bốn phần: đỉnh, chỏm, cổ và nền. Đây là nơi tận cùng của các sợi từ rễ sau (rễ cảm giác) thần kinh sống. Nhánh trục của các nơron sừng sau tạo nên các dải cảm giác chạy lên não. Các nhân của sừng sau bao gồm nhân viền, chất keo và nhân riêng.
Sừng bên và cột trung gian là vùng chất xám trung gian nằm giữa cột trước và cột sau. Vùng chất xám này được chia thành: chất trung gian trung tâm nằm sát ống trung tâm và chất trung gian bên nằm ngoài chất trung gian trung tâm. Trong chất trung gian bên có nhân trung gian bên. Cột nhân này chứa thân của các nơron vận động tự chủ mà nhánh trục của chúng đi tới các hạch giao cảm ở ngoại vi và chỉ thấy rõ ở các đốt tuỷ từ cổ VIII đến thắt lưng III. Ở các đốt tuỷ từ cùng II đến cùng IV, cột trung gian chứa các nhân đối giao cảm cùng. Nhân ngực sau là một nhân của cột trung gian nằm sát với bờ trong của nền sừng sau.
3.2. Chất trắng
Chất trắng bao quanh chất xám, được các sừng trước và sau chia thành ba thừng trước, bên và sau. Mỗi thừng chứa các bó và dải. Tên gọi của một dải là một từ ghép chỉ nơi xuất phát (để trước) và tận cùng (để sau) của các sợi trong dải đó, vị trí của dải và hướng đi các sợi. Dải có hướng đi lên là dải cảm giác, hướng đi xuống là dải vận động.
Ở thừng trước có dải vỏ – tuỷ trước dẫn truyền vận động có ý thức, dải tuỷ – đồi thị trước dẫn truyền cảm giác xúc giác thô sơ và một số các dải khác.
Ở thừng bên có dải vỏ – tuỷ bên dẫn truyền vận động có ý thức, dải đỏ – tuỷ dẫn truyền vận động không có ý thức (thuộc hệ ngoại tháp), dải tuỷ – đồi thị bên dẫn truyền cảm giác đau và nhiệt, dải tuỷ – tiểu não trước và dải tuỷ – tiểu não sau dẫn truyền cảm giác bản thể không ý thức.
Ở thừng sau có bó thon và bó chêm. Những bó này chủ yếu chứa các sợi dẫn truyền cảm giác xúc giác tinh tế và cảm giác bản thể có ý thức.
Mép trắng trước nằm sau khe giữa – trước, trước mép xám trước.
Mép trắng sau nằm ở đầu trước vách giữa – sau.
Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC
Tham gia nhóm zalo: Tài Liệu Y Học Tổng Hợp
Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY