Bài 29
HỆ SINH DỤC NỮ
MỤC TIÊU1. Mô tả được giải phẫu của các cơ quan sinh trong và ngoài của nữ. 2. Mô tả được sự cấp máu và thần kinh cho các tạng chậu hông. 3. Nêu được các liên hệ chức năng và lâm sàng thích hợp. |
Đại cương về các cơ quan sinh dục nữ
Hệ sinh dục nữ gồm các cơ quan sinh dục trong và ngoài. Các cơ quan sinh dục trong nằm trong chậu hông bé và bao gồm các buồng trứng, các vòi tử cung, tử cung và âm đạo. Các cơ quan sinh dục ngoài nằm ở trước và dưới cung mu và bao gồm gò mu, các môi lớn và bé của âm hộ, âm vật, hành tiền đình, các tuyến tiền đình lớn và tiền đình.
Hình 29.1. Thiết đồ đứng dọc chậu hông nữ
1. CÁC CƠ QUAN SINH DỤC TRONG
Âm đạo, tử cung, hai vòi tử cung và hai buồng trứng là các cơ quan sinh dục trong của nữ.
1.1. Buồng trứng
Buồng trứng là tuyến sinh dục vừa sản sinh ra noãn vừa tiết ra các nội tiết tố quyết định đặc điểm giới tính ở nữ.
Vị trí: Mỗi buồng trứng của phụ nữ chưa đẻ nằm ở một bên tử cung, phía sau và dưới phần ngoài vòi tử cung, trong hố buồng trứng ở thành bên chậu hông bé; buồng trứng bị lệch vị sau lần có chửa đầu tiên và thường không bao giờ trở về vị trí ban đầu.
Hình 29.2. Tử cung, vòi tử cung và buồng trứng
Hình thể ngoài và liên quan: Buồng trứng hình hạt đậu dẹt, khoảng 3 cm chiều dài, 1,5 cm chiều rộng và 1 cm chiều dày; đo lường qua siêu âm, thể tích buồng trứng vào khoảng 11 cm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, 6 cm sau khi mãn kinh và 3 cm trước chu kì kinh đầu tiên. Nó có màu hồng xám, mặt nhẵn khi chưa sảy ra sự rụng trứng; sau đó, các mặt buồng trứng bị méo đi do sự hoá sẹo kế tiếp nhau của các thể vàng. Buồng trứng có các mặt ngoài và trong, các bờ là bờ tự do ở sau và bờ mạc treo buồng trứng ở trước, và các đầu là đầu vòi (đầu trên) và đầu tử cung (đầu dưới). Mặt ngoài tiếp xúc với phúc mạc thành trong hố buồng trứng. Hố được giới hạn ở trước bởi thừng động mạch rốn và ở sau bởi niệu quản và động mạch chậu trong; ngoài phúc mạc thành là mô ngoài phúc mạc chứa các mạch máu và thần kinh bịt. Nơi mà mạch và thần kinh đi vào và ra khỏi buồng trứng trên mặt ngoài, gần bờ mạc treo, gọi là rốn buồng trứng. Mặt trong tiếp xúc với các tua vòi và liên quan với các quai ruột. Bờ mạc treo được gắn với mặt sau của dây chằng rộng bởi mạc treo buồng trứng; bờ tự do hướng ra sau, liên quan với các quai ruột. Đầu vòi là nơi bám của dây chằng treo buồng trứng và tua buồng trứng của vòi tử cung; đầu tử cung được buộc vào sừng tử cung bằng dây chằng riêng buồng trứng.
Các phương tiện giữ buồng trứng tại chỗ
Mạc treo buồng trứng là một nếp phúc mạc ngắn nối mặt sau dây chằng rộng với bờ mạc treo buồng trứng của buồng trứng.
Dây chằng treo buồng trứng đi từ đầu vòi của buồng trứng tới thành bên chậu hông, chứa các mạch máu và thần kinh của buồng trứng.
Dây chằng riêng buồng trứng đi từ đầu tử cung của buồng trứng tới sừng tử cung; dây chằng này nằm trong dây chằng rộng và chứa một số sợi cơ trơn.
1.2. Vòi tử cung
Có hai vòi tử cung, mỗi vòi là một ống dài khoảng 10 cm nằm ở một bên tử cung, trong bờ trên của dây chằng rộng. Vòi tử cung mở ở đầu trong của nó vào góc trên ngoài của buồng tử cung bằng lỗ tử cung và ở đầu ngoài vào ổ phúc mạc bằng lỗ bụng. Ở phụ nữ chưa đẻ, vòi tử cung đi từ tử cung ra ngoài tới tận đầu tử cung của buồng trứng, tiếp đó đi lên dọc bờ mạc treo của buồng trứng tới đầu vòi của buồng trứng rồi vòng quanh đầu này để đi xuống và tận cùng trên bờ tự do và mặt trong của buồng trứng. Từ ngoài vào trong, các đoạn của vòi là: (1) phễu vòi; (2) bóng vòi; (3) eo vòi và (4) phần tử cung. Phễu vòi là đầu loe ra như một cái phễu của vòi tử cung; ở giữa phễu có lỗ bụng của vòi, một lỗ rộng khoảng 3 mm khi giãn. Bờ ngoại vi của phễu kéo dài vào 12 – 15 mỏm lồi như ngón tay gọi là các tua vòi; tua dài nhất trong các tua này gọi là tua buồng trứng và nó thường gắn vào đầu vòi của buồng trứng. Các tua có tác dụng tóm bắt trứng rụng từ buồng trứng và dẫn trứng vào lòng vòi tử cung qua lỗ bụng. Bóng vòi là đoạn giãn rộng của vòi tạo nên hơn nửa chiều dài phía ngoài của vòi. Thành bóng vòi mỏng và đường kính rộng nhất của lòng bóng vào khoảng 1 cm. Bóng vòi thường là nơi diễn ra sự thụ tinh. Eo vòi là đoạn tròn, chắc, có thành cơ dày hơn và chiếm khoảng một phần ba chiều dài của vòi. Lòng eo vòi hẹp (đường kính 0,1 – 0,5 mm). Phần tử cung là đoạn nằm trong thành tử cung (phần nội thành), dài khoảng 1 cm.
Cấu tạo
Vòi tử cung được bọc ở ngoài cùng bởi phúc mạc, gồm lớp thanh mạc và tấm dưới thanh mạc. Dưới phúc mạc là lớp cơ trơn gồm tầng dọc ở ngoài và tầng vòng ở trong. Trong cùng là lớp niêm mạc. Niêm mạc gấp lại thành 4 – 5 nếp dọc lớn, trên mỗi nếp lớn lại có nhiều nếp nhỏ (nếp cấp hai), tạo nên một diện tích niêm mạc rộng: niêm mạc của vòi thuộc loại thượng mô có lông chuyển có tác dụng đẩy trứng về phía buồng tử cung. Trong quá trình di chuyển của trứng đã được thụ tinh, nếu nó bị nghẽn lại trong vòi vì một lý do nào đấy thì sẽ dẫn tới tình trạng chửa ngoài tử cung và vòi sẽ bị vỡ khi thai to ra.
Vòi tử cung được dây chẳng rộng bao bọc và nếp phúc mạc thông xuống ở dưới vòi được gọi là mạc treo vòi. Giữa hai lá của mạc treo, dọc theo bờ dưới của vòi, có các nhánh vòi của động mạch tử cung và động mạch buồng trứng.
Hình 29.3. Tử cung, âm đạo và các cấu trúc nâng đỡ
1.3. Tử cung
Tử cung là một cơ quan rỗng; thành dày của nó chủ yếu do lớp cơ tạo nên. Tử cung thông ở trên với các vòi tử cung và ở dưới với âm đạo. Nếu sự thụ tinh đã sảy ra, túi phôi đang phát triển được vòi tử cung dẫn về buồng tử cung; túi này gắn vào niêm mạc tử cung và được giữ lại ở đây tới khi phát triển đầy đủ.
– Vị trí: Tử cung nằm trong chậu hông bé, giữa bàng quang và trực tràng; nó thông với các vòi tử cung ở trên và liên tiếp với âm đạo ở dưới.
– Hình thể ngoài và phân chia: Tử cung có hình quả lê, hơi dẹt trước sau. Nó được chia thành hai phần là thân tử cung tạo nên 2/3 trên và 1/3 hẹp hơn ở dưới, ít dẹt mà có hình trụ, là cổ tử cung, giành giới giữa hai phần là một chỗ hơi thắt lại, ngang mức với lỗ trong giải phẫu. Phần lỗi tròn của thân ở trên chỗ đi vào của các vòi tử cung là đáy tử cung.
Thân có hình thang và hẹp dần từ trên xuống, có kích thước khoảng 4 cm chiều cao và 4,5 cm chiều rộng. Hai góc bên của thân được gọi là sừng tử cung, nơi từ cung tiếp nối với eo vòi tử cung. Thân tử cung dẹt trước – sau nên có hai bờ bên và hai mặt là mặt bàng quang và mặt ruột. Mặt bàng quang, tức mặt áp vào mặt trên bàng quang, được phúc mạc phủ. Phúc mạc phủ mặt này tới ngang eo tử cung thì lật lên bằng quang, tạo nên nếp bàng quang tử cung. Ở giữa bàng quang và thân tử cung là túi cùng bàng quang tử cung. Mặt ruột hướng lên trên và ra sau, liên quan với đại tràng sigma, các quai hồi tràng cuối cùng và trực tràng. Phúc mạc phủ mặt này còn kéo dài qua co tử cung tới phần ba trên âm đạo rồi lật lên phủ mặt trước trực tràng tạo nên túi cùng tử cung trực tràng. Đáy như một vòm hướng ra trước, liên quan với các quai ruột non; phúc mạc phủ đáy liên tiếp với phúc mạc của các mặt tử cung. Các bờ bên tử cung là nơi phúc mạc tử cung liên tiếp với dây chằng rộng; động mạch tử cung chạy ở dọc bờ bên, giữa hai lá của dây chẳng rộng. Ở đầu trên của bờ bên, vòi tử cung đi vào thân tử cung và điểm tiếp nối vòi thân được gọi là sừng tử cung; ở sau dưới của sừng là nơi bám của dây chằng riêng buồng trứng và ở trước dưới là chỗ bám của dây chằng tròn.
Cổ dài khoảng 2,5 cm và rộng nhất ở giữa. Âm đạo bám quanh cổ tử cung, chia nó thành phần trên âm đạo và phần âm đạo. Đoạn 1/3 trên của cổ tử cung (thuộc phần trên âm đạo) là đoạn thắt hẹp và được gọi là eo tử cung.
Phần trên âm đạo của cổ được vây quanh bởi mô cận cổ tử cung (thuộc mô liên kết) và được ngăn cách ở trước với phần sau của mặt trên bàng quang bởi mô liên kết này. Trong mô cận cổ tử cung ở hai bờ bên, động mạch tử cung bắt chéo trước niệu quản ở cách cổ tử cung khoảng 1,5 cm. Ở phía sau, qua túi cùng tử cung trực tràng, cổ từ cung liên quan với trực tràng, nhưng có thể được ngăn cách với trực tràng bằng một quai hồi tràng.
Phần âm đạo của cổ tử cung như một đĩa lồi (hay mõm cá mè) nhô vào âm đạo, với một lỗ ở giữa gọi là lỗ ngoài tử cung, hay lỗ tử cung. Ở phụ nữ chưa sinh đẻ, lỗ ngoài là một lỗ tròn, nhưng sau khi sinh con nó là một khe ngang nằm giữa các các môi trước và sau. Lỗ ngoài thông âm đạo với ống cổ tử cung. Phần âm đạo cùng với thành âm đạo xung quanh giới hạn nên một vòm âm đạo; vòm được chia thành 3 phần: phần trước, phần sau và các phần bên.
Hướng: Tử cung vừa gấp ra trước và ngả (đổ) ra trước. Gập ra trước nghĩa là trục của thân tử cung hợp với trục của cổ tử cung một góc 120″ hướng ra trước. Ngả ra trước nghĩa là trục của thân tử cung hợp với trục của âm đạo (hay trục của chậu hông) một góc 90′ hướng ra trước. Tư thế này giúp cho tử cung không bị sa xuống âm đạo.
Hình thể trong và cấu tạo
Khoang rỗng bên trong tử cung là một khoang hẹp so với thành dày của tử cung. Nó được chia thành buồng tử cung và ống cổ tử cung; hai phần này thông nhau qua lỗ trong giải phẫu, một lỗ nằm ngang mức chỗ thắt giữa thân và cổ tử cung ở mặt ngoài. Buồng tử cung rất dẹt theo chiều trước – sau, chỉ là một khe hẹp trên mặt cắt đứng dọc hoặc nằm ngang. Trên mặt cắt đứng ngang, nó có hình tam giác với hai góc bên là nơi thông với các vòi tử cung và góc dưới là lỗ trong giải phẫu. Ống cổ tử cung trông gần như một hình thoi chạy dọc từ lỗ trong giải phẫu tới lỗ ngoài và rộng nhất ở phần giữa. Trên các thành trước và sau của nó nổi lên hai gờ dọc mà từ đó có các nếp, gọi là các nếp lá cọ, chạy chếch lên trên và sang bên như các nhánh của một cành cây. Các nếp trên các thành đối nhau đan cài vào nhau để đóng kín ống cổ tử cung. Phần eo tử cung hoà nhập vào thân tử cung trong tháng thứ hai của thai kì và tạo nên “đoạn dưới tử cung”. Niêm mạc của eo tử cung trải qua những biến đổi theo chu kì kinh nguyệt nhưng niêm mạc của phần cổ tử cung dưới eo thì không. Đường chuyển tiếp niêm mạc tại giới hạn dưới của eo được gọi là lỗ trong mô học.
Thành tử cung gồm ba lớp mô, lần lượt từ ngoài vào trong là:
Lớp phúc mạc, gồm lớp thanh mạc và tấm dưới thanh mạc. Ở mặt trước, phúc mạc chỉ phủ tới eo tử cung; về phía sau, phúc mạc phủ tới phần trên âm đạo.
Lớp cơ gồm ba tầng trong đó tầng giữa là tầng cơ rối, gồm các thớ cơ đan chéo chằng chịt ôm quanh các mạch máu; khi lớp cơ này co có tác dụng cầm máu sau đẻ. Cổ tử cung không có lớp cơ rối.
Lớp niêm mạc dày mỏng theo giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt, có nhiều tuyến tiết ra chất nhầy. Hàng tháng, dưới ảnh hưởng của sự thay đổi nội tiết tố, niêm mạc bong ra làm chảy máu tạo nên kinh nguyệt.
Các phương tiện giữ tử cung tại chỗ
Ngoài vị trí – hướng chiều của tử cung, hoành chậu hông và thể đáy chậu là những yếu tố giữ tử cung tại chỗ thông qua việc giữ âm đạo. Ngoài ra, tử cung còn được giữ bởi các dây chằng.
Các dây chằng rộng là hai nếp phúc mạc đi từ các bờ bên tử cung tới thành bên chậu hông, nối phúc mạc tử cung với phúc mạc thành chậu. Nó có hai mặt và bốn bờ. Các bờ trong và ngoài lần lượt liên tiếp với phúc mạc của tử cung và thành bên chậu hông; bờ trên ôm lấy vòi tử cung; bờ dưới, còn được gọi là nền dây chằng rộng, là nơi hai lá trước và sau của dây chằng quặt ra trước và sau liên tiếp với phúc mạc thành. Trong nền dây chằng rộng có động mạch tử cung bắt chéo phía trước niệu quản ở cách cổ tử cung 1,5 cm; cần thận trọng để tránh cặp vào niệu quản khi kẹp động mạch tử cung để cầm máu trong thủ thuật cắt bỏ tử cung. Các phần hợp nên dây chằng rộng là mạc treo tử cung, mạc treo vòi tử cung và mạc treo buồng trứng.
Các dây chằng tròn là những dải dài khoảng 10 – 15 cm, từ trước – dưới sừng tử cung chạy ra ngoài, xuống dưới và ra trước qua thành chậu và ống bẹn rồi toả ra tận cùng ở mô dưới da của gò mu và mỗi lớn. Một số mạch bạch huyết của tử cung đi theo dây chằng tròn và đổ vào các hạch bạch huyết bẹn nông.
Các dây chằng của cổ tử cung: Mô liên kết dày đặc nằm ở sàn chậu hông và tạo nên yếu tố chống đỡ quan trọng cho tử cung. Mô này tạo nên ba cặp dây chằng từ ngoại vi cổ tử cung toả hình tia ra sau, ra trước và sang bên tới thành xương của chậu hông. Các dây chằng tử cung – cùng từ mặt sau cổ tử cung chạy ra sau, mỗi dây ở một bên của trực tràng, và bám vào mặt trước xương cùng; chúng đội phúc mạc lên thành các nếp tử cung – trực tràng. Các dây chằng ngang cổ tử cung từ bờ bên cổ tử cung và phần bên vòm âm đạo chạy tới thành bên chậu hông; chúng là những dây chằng lớn nhất và quan trọng nhất về lâm sàng. Các dây chằng mu – cổ tử cung từ mặt trước của cổ tử cung và phần trên âm đạo chạy ra trước bám vào mặt sau của các xương mu.
1.4. Âm đạo
Âm đạo là cơ quan giao hợp và đường để thai nhi từ tử cung ra ngoài. Nó là một ống xơ – cơ được lót bằng thượng mô lát tầng không sừng hoá, đi từ tiền đình âm đạo tới tử cung. Âm đạo nằm sau bàng quang và niệu đạo, trước trực tràng và ống hậu môn, gồm có hai thành trước và sau, hai bờ bên và hai đầu trên và dưới.
Thành trước dài khoảng 7,5 cm, liên quan với đáy bàng quang ở trên và niệu đạo ở dưới.
Thành sau dài khoảng 9 cm, đoạn trên được ngăn cách với trực tràng bằng túi cùng trực tràng – tử cung, đoạn giữa ngăn cách với trực tràng bởi vách trực tràng – âm đạo, và đoạn dưới được ngăn cách với ống hậu môn bởi thể đáy chậu.
Đầu trên bám vào cổ tử cung và cùng với phần âm đạo của cổ tử cung giới hạn nên vòm âm đạo; phần bên của vòm này liên quan với niệu quản lúc niệu quản đi tới đáy bàng quang.
Đầu dưới mở vào tiền đình âm đạo. Ở trinh nữ, lỗ dưới âm đạo được đậy bởi một màng niêm mạc thủng ở giữa gọi là màng trinh. Xung quanh đầu dưới âm đạo có hành tiền đình và cơ hành xốp bao quanh như một cơ thắt âm đạo. Lỗ âm đạo ở phía sau lỗ niệu đạo ngoài.
1.5. Mạch và thần kinh của các cơ quan sinh dục trong
Các động mạch. Có hai động mạch chính:
Động mạch buồng trứng tách từ động mạch chủ bụng; nó đi theo dây chằng treo buồng trứng đến đầu vòi của buồng trứng thì chia làm hai nhánh là nhánh vòi tử cung và nhánh buồng trứng; chúng tiếp nối với các nhánh cùng tên của động mạch tử cung.
Động mạch tử cung
Nguyên ủy và đường đi: Động mạch này tách từ động mạch chậu trong và đi qua ba đoạn: (1) đoạn thành bên chậu hông (là giới hạn dưới của hố buồng trứng); (2) đoạn trong nền dây chằng rộng, đi giữa hai lá của dây chằng rộng, bắt chéo trước niệu quản ở cách cổ tử cung 1,5 cm; (3) đoạn bờ bên tử cung đi lên ngoằn ngoèo dọc bờ bên của tử cung, khi tới sừng tử cung thì tận cùng bằng hai nhánh là nhánh buồng trứng và nhánh vòi tử cung, tiếp nối với các nhánh tương ứng của động mạch buồng trứng.
Nhánh bên: Động mạch tách ra nhiều nhánh bên cho âm đạo, niệu quản, bàng quang, cổ tử cung và thân tử cung.
Tĩnh mạch: Tĩnh mạch đổ vào các đám rối tĩnh mạch buồng trứng và tử cung rồi đổ về tĩnh mạch chậu trong.
Bạch huyết đổ vào chuỗi hạch cạnh động mạch tử cung, hay động mạch âm đạo, cuối cùng đổ vào các hạch chậu trong.
Thần kinh tách ra từ đám rối hạ vị dưới.
2. CÁC CƠ QUAN SINH DỤC NGOÀI CỦA NỮ
Các cơ quan sinh dục ngoài của nữ gồm có âm hộ và âm vật.
Hình 29.4. Các cơ quan sinh dục ngoài của nữ
2.1. Âm hộ
Âm hộ gồm có gò mu, môi lớn, môi bé và tiền đình âm đạo.
Gò mu là một gò lồi liên tiếp với thành bụng ở trên, với hai môi lớn ở dưới và ngăn cách với đùi bởi nếp lằn bẹn.
Môi lớn là hai nếp da lớn tạo nên giới hạn bên của âm hộ. Khoảng nằm giữa hai môi là khe âm hộ. Hai môi gặp nhau ở trước tạo thành mép môi trước, nơi có nhiều lông mu che phủ, và liên tiếp với nhau ở phía sau tại mép môi sau, nơi cách hậu môn khoảng 3 cm.
Môi bé là hai nếp da nhỏ hơn, nằm giữa các môi lớn và ngăn cách với môi lớn bởi rãnh gian môi. Ở đầu trước, môi bé tách ra thành một nếp nhỏ bao lấy âm vật tạo nên bao âm vật; đầu sau hai môi dính với nhau tạo nên hãm môi âm hộ.
Tiền đình âm đạo là một khoảng lõm nằm giữa mặt trong hai môi bé, sau âm vật và trước hãm môi âm hộ. Mở thông vào tiền đình có lỗ niệu đạo ngoài ở trước, lỗ âm đạo ở sau và những ống tiết của các tuyến tiền đình lớn.
2.2. Âm vật
Âm vật tương đương với dương vật ở nam giới và được tạo nên bởi hai vật hang. Âm vật nằm trước tiền đình âm đạo, dưới khớp mu, trên lỗ niệu đạo. Phía dưới âm vật có một nếp niêm mạc gọi là hãm âm vật.
2.3. Tuyến tiền đình lớn
Có hai tuyến lớn tiết ra chất nhầy nằm ở hai bên tiền đình âm đạo, mỗi tuyến có ống dẫn đổ vào tiền đình, được gọi là các tuyến tiền đình lớn.
2.4. Mạch và thần kinh của cơ quan sinh dục ngoài
Động mạch là các nhánh từ động mạch thẹn ngoài và động mạch thẹn trong. Tĩnh mạch đổ về tĩnh mạch thẹn trong và tĩnh mạch thẹn ngoài. Bạch huyết đổ về các hạch bẹn nông và các hạch chậu. Thần kinh là các nhánh của các dây thần kinh chậu bẹn, sinh dục dùi và thần kinh bẹn.
3. TUYẾN VÚ
Hình 29.5. Tuyến vú
Vú là hai tuyến tiết sữa nằm ở ngực, trước các cơ ngực, đi từ xương sườn III đến xương sườn VI.
Hình thể ngoài
Vú có hình mâm xôi; ở giữa mặt trước của vú có một lồi tròn gọi là núm vú hay nhú vú, nơi có nhiều lỗ của các ống tiết sữa. Xung quanh núm vú là một vùng da sẫm màu hơn gọi là quầng vú. Trên bề mặt quầng vú có nổi lên nhiều cục nhỏ do những tuyến bã ở quầng vú đẩy lồi lên.
Cấu tạo
Mỗi vú có từ 15 – 20 thuỳ mô tuyến sữa, mỗi thuỳ do một số tiểu thuỳ tạo nên ống tiết của các tuyến sữa chạy theo hình nan hoa từ chu vi hướng vào núm vú. Khi rạch trích áp xe vú, phải rạch theo hướng song song với hướng đi của các ống sữa để tránh cắt đứt các ống tuyến sữa.
Ở bề mặt và giữa các tuyến sữa là những mô mỡ và áp xe có thể xảy ra ở đây.
Mạch và thần kinh
Động mạch là các nhánh tách từ động mạch ngực trong và động mạch ngực ngoài.
Tĩnh mạch đổ về các tĩnh mạch ngực trong và tĩnh mạch ngực ngoài.
Bạch huyết đổ về ba chuỗi hạch là chuỗi hạch nách, chuỗi hạch ngực trong và chuỗi hạch trên đòn.
Thần kinh là những nhánh trên đòn của đám rối cổ nông và các nhánh xiên của các dây thần kinh gian sườn từ II đến VI.
Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC
Tham gia nhóm zalo: Tài Liệu Y Học Tổng Hợp
Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY