Hệ Tiết Niệu – Thận Và Niệu Quản – Giải Phẫu Y Hà Nội

Bài 27

HỆ TIẾT NIỆU: THẬN VÀ NIỆU QUẢN

MỤC TIÊU

1. Mô tả được vị trí, kích thước, hình thể – liên quan và cấu tạo của thận và niệu quản; sự cung cấp mạch và thần kinh cho những cơ quan này.

2. Nếu được các liên hệ chức năng và lâm sàng thích hợp.

Hệ tiết niệu bao gồm hai thận là những cơ quan tạo ra nước tiểu, các niệu quản dẫn nước tiểu từ thận xuống bàng quang, nơi nước tiểu được giữa lại tạm thời, và niệu đạo là đường dẫn nước tiểu ra ngoài. Thận và phần trên niệu quản nằm ở bụng, sau phúc mạc; phần dưới niệu quản và bàng quang nằm trong chậu hông, dưới phúc mạc; niệu đạo nữ nằm ở sàn chậu hông nhưng phần lớn chiều dài niệu đạo nam nằm trong dương vật để đảm nhiệm cả các chức năng tiết niệu và sinh dục.

1. THẬN

Hai thận là những cơ quan có nhiệm vụ bài tiết những sản phẩm cuối cùng của hoạt động chuyển hóa và nước thừa, thông qua đó kiểm soát nồng độ của những chất khác nhau trong các dịch cơ thể, giữ cho nước và điện giải trong các dịch mô ở trạng thái tương đối hằng định. Thận còn sản xuất hormon ảnh hưởng đến sự tạo hồng cầu.

1.1. Hình thể ngoài, kích thước và vị trí

Hình thể ngoài của thận

Hình 27.1. Hình thể ngoài của thận

1.1.1. Hình thể ngoài

Thận có màu nâu đỏ, hình hạt đậu dẹt nên có các mặt trướcsau, các bờ trongngoàicác cực trêndưới. Bờ trong lõm ở giữa tại rốn thận, nơi có các các mạch thận đi vào và đi ra khỏi thận, và là nơi bể thận thoát ra ngoài để liên tiếp với niệu quản.

1.1.2. Kích thước

Mỗi thận có kích thước khoảng 11 cm chiều dài, 6 cm chiều rộng và 3 cm chiều dày (chiều trước – sau). Trong lượng trung bình là 150 gram ở nam và 135 gram ở nữ.

Đối chiếu của thận lên thành lưng

Hình 27.2. Vị trí đối chiếu của thận lên thành lưng

1.1.3. Vị trí và đối chiếu

Các thận nằm sau phúc mạc, ở hai bên cột sống thắt lưng. Đầu trên của thận ngang mức bờ trên đốt sống ngực XII, đầu dưới ngang mức đốt sống thắt lưng III. Thận phải ở hơi thấp hơn thận trái, khoảng 1,25 cm. Đầu tiên của thận phải chỉ ở ngang mức xương sườn XII, đầu trên thận trái ở ngang mức xương sườn XI. Trục dọc của thận hướng về phía dưới – bên và trục ngang (trước – sau) hướng về phía sau – trong, vì thế mặt trước của thận còn được gọi là mặt trước – ngoài, mặt sau là mặt sau – trong. Ở tư thế nằm và chiếu lên mặt trước cơ thể, trung tâm rốn thận ở sấp xỉ mặt phẳng ngang qua môn vị, cách đường giữa khoảng 5 cm. Cực trên của thận cách đường giữa 2,5 cm, cực dưới cách 7,5 cm. Chiếu lên mặt sau cơ thể, trung tâm của rốn thận ở ngang mức bờ dưới của mỏm gai đốt sống thắt lưng I, cực dưới của thận ở cách mào chậu 2,5 cm. Thận xuống thấp hơn khoảng 2,5 cm ở tư thế đứng; chúng dịch chuyển lên và xuống một chút trong lúc thở.

1.2. Liên quan

Các liên quan trước của thận

Hình 27.3. Các liên quan phía trước của thận

1.2.1. Mặt trước

Thận phải. Mặt trước thận phải có những diện không được phúc mạc phủ mà tiếp xúc trực tiếp với các tạng khác: với tuyến thượng thận phải ở cực trên, góc đại tràng phải ở dưới và phần xuống tá tràng ở trong. Phần còn lại có phúc mạc phủ và áp vào ấn thận trên mặt tạng của gan.

Thận trái. Mặt trước thận trái liên quan với lách, tuỵ, dạ dày, tuyến thượng thận trái, góc đại tràng trái, đại tràng xuống và hỗng tràng. Ở trung tâm mặt trước là một diện hình tứ giác tiếp xúc với thân tụy và các mạch lách. Ở trên diện này là một diện nhỏ tiếp xúc với tuyến thượng thận trái ở cực trên và một diện liên quan với lách chạy dọc phần trên bờ ngoài; giữa hai diện này là một diện hình tam giác liên quan với da dày. Ở dưới các diện tuỵ và lách, vùng hẹp phía ngoài liên quan với góc đại tràng trái và nơi bắt đầu của đại tràng xuống, vùng rộng bên trong liên quan với các quai hỗng tràng. Các diện liên quan với dạ dày, lách và hỗng tràng được phúc mạc phủ: các diện còn lại là vùng dính.

1.2.2. Mặt sau

Xương sườn XII chia mặt sau thận thành hai phần liên quan: phần ngực ở trên xương sườn XII và phần thắt lưng ở dưới xương sườn XII.

Phần ngực liên quan với cơ hoành; cơ hoành ngăn cách thận với ngách sườn –  hoành của màng phổi và các xương sườn (xương sườn XII với thận phải, xương sườn XI và XII với thân trái).

Phần thắt lưng. Thận liên quan qua thể mỡ cạnh thận với cơ thắt lưng, cơ vuông thắt lưng và cân cơ ngang bụng.

1.2.3. Các bờ của thận

Bờ ngoài của thận phải liên quan với gan, của thận trái liên quan với lách và đại tràng xuống.

Bờ trong lồi ở phía các cực thận nhưng lõm ở giữa thành một khe gọi là rốn thận. Vị trí của các thành phần chính của rốn thận là: bể thận ở sau, động mạch thận ở giữa, và tĩnh mạch thận ở trước. Bờ trong liên quan với tuyến thượng thận cùng các cuống mạch của nó ở trên rốn thận và với đoạn đầu của niệu quản cùng các cuống mạch sinh dục ở dưới rốn thận. Rốn thận dẫn đến một khoang nằm ở trung tâm thận gọi là xoang thận. Xoang thận là nơi chứa các đài và bể thận cùng các mạch máu, thành xoang được lót bởi phần quặt vào của bao thận.

Thiết đồ nằm ngang qua thận

Hình 27.4. Thiết đồ nằm ngang qua thận

1.3. Các lớp mô quanh thận

Thận và tuyến thượng thận được vùi trong một bao mỡ, gọi là bao mỡ quanh thận. Mô liên kết sợi bao quanh bao mỡ này dày đặc lại thành mạc thận. Mạc thận có một chẽ ngang ngăn cách thận với tuyến thượng thận.

Mạc thận. Mạc thận gồm hai lá trước và sau. Tại bờ ngoài thận, các lá trước và sau của mạc thận dính với nhau rồi hoà với mạc ngang. Về phía trong, lá trước đi trước các mạch máu của thận để hoà nhập vào mô liên kết bao quanh động mạch chủ bụng và tĩnh mạch chủ dưới, lá sau bám vào mạc của cơ thắt lưng lớn và vào cột sống. Một lớp mạc sâu nối lá trước với lá sau tại bờ trong của thận và các mạch thận phải xuyên qua chẽ mạc nối này; điều này giải thích cho việc vì sao nhiễm trùng ở một ổ thận không lan được qua đường giữa để tới ổ thận bên kia. Ở trên tuyến thượng thận, hai lá mạc thận dính với nhau và hoà lẫn với mạc dưới cơ hoành. Ở phía dưới, hai lá không dính nhau, lá trước mỏng đi tới mức không thể phân biệt được với mô ngoài phúc mạc của hố chậu, lá sau hoà lẫn với mạc chậu. Giữa lá sau của mạc thận và thành lưng có một khối mỡ nữa gọi là thể mỡ cạnh thận; trong thể mỡ này có chứa các thần kinh dưới sườn, chậu hạ vị và chậu bẹn.

1.4. Hình thể trong

Cắt đứng ngang qua thận, ta thấy thận có hai phần: phần đặc ở xung quanh là nhu mô thận, phần giữa rỗng là xoang thận. Ngoài cùng, bọc lấy thận là một bao xơ.

Cấu tạo của thận

Hình 27.5. Cấu tạo của thận

1.4.1. Nhu mô thận

Nhu mô thận gồm có hai vùng là vùng tủyvùng vỏ.

Tuỷ thận. Tuỷ bao gồm các khối hình nón nhợt màu gọi là các tháp thận. Nền của các tháp hướng ra phía bao xơ, đỉnh của chúng tập trung về xoang thận và nhỏ vào các đài nhỏ như những nhú thận, mỗi đài nhỏ chứa từ 1 tới 3 nhú. Mỗi tháp thận cùng với mô vỏ thận bao quanh tạo nên một thùy thận. Số lượng nhú thận biến đổi từ 5 – 11, thường gặp nhất là 8. Trên nhú thận có một diện. gọi là diện sàng, chứa các lỗ đổ của các ống nhú.

Vỏ thận. Vỏ thận gồm vùng mô thận nằm giữa bao xơ và nền của các tháp thận và vùng mô thận nằm giữa các tháp thận như là các cột thận. Từ các nền của các tháp thận có các tia tuỷ chạy về phía bao xơ và thuôn nhọn dần khi tiến gần tới bao xơ. Vùng mỏ sẫm màu hơn uốn lượn quanh các tia tuỷ và ngăn cách các tia tuỷ với nhau được gọi là mê đạo vỏ. Phần mê đạo vỏ nằm ở vùng vỏ ngoài, sát bao xơ, được gọi là vỏ của vỏ.

Cấu trúc vi thể của thận

Hình 27.6. Cấu trúc vi thể của thận

Về vi thể, nhu mô thận được cấu tạo bởi các đơn vị tạo ra nước tiểu gọi là các nephron. Mỗi nephron bao gồm một cấu trúc lọc huyết tương gọi là tiểu thể thận và một ống thận đảm nhiệm việc tái hấp thu chọn lọc các chất từ dịch lọc để tạo nước tiểu. Nước tiểu từ một số ống thận được tập trung về một ống góp, nhiều ống góp hợp thành một ống nhú mở vào một đài thận nhỏ tại đỉnh của một nhú thận. Tiểu thể thận gồm một cuộn mạch và một bao cuộn mạch. Cuộn mạch nằm giữa một tiểu động mạch tới và một tiểu động mạch đi; bao cuộn mạch là đầu tịt phình to của ống thận và cuộn mạch lồng sâu vào đầu phình tịt này.

1.4.2. Các đài thận và bể thận

Các đài thận nhỏ, đài thận lớn và bể thận nằm trong xoang thận. Có 7 – 13 đài thận nhỏ, mỗi đài là một cấu trúc hình loa kèn mà miệng loa gắn vào quanh nền của một (hiếm khi 2 hoặc 3) nhú thận. Các đài thận nhỏ hợp lại với nhau tạo nên 2 – 3 đài thận lớn. Các đài lớn hợp lại thành một khoang đơn hình phễu gọi là bể thận. Bể thận thu nhỏ dần khi nó chạy về phía dưới –  trong qua rốn thận để liên tiếp với niệu quản. Cũng có khi bể thận hoàn toàn nằm trong xoang thận và khi đó vùng tiếp nối bể thận – niệu quản nằm hoàn toàn trong xoang thận hoặc ở gần rốn thận.

1.5. Mạch và thần kinh của thận

1.5.1. Động mạch thận

Mỗi thận thường nhận được một động mạch thận tách thẳng góc từ mặt bên động mạch chủ bụng, ở ngay dưới nguyên ủy của động mạch mạc treo tràng trên và ngang mức đốt sống thắt lưng I. Trên đường tới rốn thận, động mạch thận phải đi sau tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh mạch thận phải, đầu tuy và phần xuống tá tràng; động mạch thận trái đi sau tĩnh mạch thận trái, thân tuy và tĩnh mạch lách. Khi tới gần rốn thận, động mạch thận thường tận cùng bằng hai nhánh là nhánh trướcnhánh sau. Nhánh trước thường tách 4 ra động mạch phân thuỳ đi vào thận ở trước bể thận, đó là các động mạch phân thuỳ trên, trước – trên, trước – dướidưới. Nhánh sau chạy vòng ở mép sau rốn thận và trở thành động mạch phân thuỳ sau. Các vùng thận được cấp máu bởi các động mạch phân thuỳ được gọi là các phân thuỳ thận: phân thuỳ trên chiếm phần trong của cực trên; phân thuỳ dưới chiếm toàn bộ hai mặt trước và sau của cực dưới; phân thuỳ trước – trên nằm ở mặt trước, ngay dưới phân thuỳ trên; phân thuỳ trước dưới nằm ở mặt trước, ngay trên thuỳ dưới; phân thuỳ sau bao gồm toàn bộ vùng sau thận mà ở giữa các phân thuỳ trên và dưới.

Các động mạch phân thuỳ chia nhánh nhỏ dần ở trong thận và toàn bộ các nhánh phân chia của chúng được gọi chung là các động mạch nội thận. Các động mạch nội thận lớn nhất là các động mạch gian thùy đi về phía vỏ ở quanh các tháp thận. Mỗi động mạch gian thuỳ chia đôi ở chỗ tiếp nối vỏ và tuỷ thận thành các động mạch cung chạy trên mặt đáy của các tháp thận. Mỗi động mạch cung tách ra các động mạch vỏ hình tia hay các động mạch gian tiểu thùy chạy về phía vỏ thận, một số động mạch vỏ hình tia xuyên qua bề mặt thận và được gọi là các động mạch xuyên hình tia. Mỗi động mạch vỏ hình tia chia thành các tiểu động mạch đến cuộn mạch. Các tiểu động mạch đi của cuộn mạch đi vào tuỷ thận và mỗi động mạch chia thành các tiểu động mạch thẳng.

Trước khi chia nhánh vào thận, động mạch thận cho một số nhánh cấp máu cho tuyến thượng thận và niệu quản.

Các động mạch thận

Hình 27.7. Các động mạnh thận và phân nhánh của nó

1.5.2. Tĩnh mạch thận

Các tĩnh mạch vỏ hình tia và các tiểu tĩnh mạch thẳng đổ về các tĩnh mạch cung các tĩnh mạch cung đổ về các tĩnh mạch gian thuỳ. Các tĩnh mạch nội thận nói trên cùng các tĩnh mạch bao thận đổ về tĩnh mạch thận. Đổ về tĩnh mạch thận trái còn có tĩnh mạch thượng thận trái và tĩnh mạch tinh hoàn hoặc buồng trứng trái. Các tĩnh mạch thận nằm trước các động mạch thận và đổ gần như thẳng góc vào tĩnh mạch chủ dưới. Tĩnh mạch thận trái dài gấp ba tĩnh mạch thận phải (7,5 cm và 2,5 cm); nó đi sau tĩnh mạch lách và thân tuy, khi sắp tận cùng thì nằm trước động mạch chủ bụng.

1.5.3. Bạch mạch

Bạch mạch của thận đổ vào các hạch cạnh động mạch chủ bụng gần nơi phát nguyên của động mạch và tĩnh mạch thận.

1.5.4. Thần kinh

Đám rối thận chạy vào thận và cho các nhánh nhỏ quây xung quanh động mạch thận.

2. NIỆU QUẢN

Các hiệu quản là những ống cơ đẩy nước tiểu từ bể thận tới bàng quang bằng các co thắt nhu động của chúng. Mỗi niệu quản dài 25 – 28 cm, đi từ chỗ nối với bể thận tới lỗ niệu quản của bàng quang, và đường đi của nó được chia thành hai đoạn dài gần bằng nhau: đoạn bụngđoạn chậu hông. Đường kính của niệu quản khoảng 3 mm nhưng hơi hẹp hơn tại ba nơi: chỗ nối với bể thận, chỗ bắt chéo trước các động mạch chậu và đoạn xuyên qua thành bàng quang (hẹp nhất). Sỏi từ thận rơi xuống niệu quản có thể bị kẹt lại ở các chỗ hẹp này.

Niệu quản và động mạch thận

Hình 27.8. Niệu quản và động mạch thận

2.1. Đoạn bụng

Đoạn bụng đi từ bể thận tới đường cung xương chậu. Ở đoạn này, niệu quản đi xuống ở sau phúc mạc và trên mặt trước cơ thắt lưng lớn, được cơ này ngăn cách với đỉnh mỏm ngang các đốt sống thắt lưng cuối. Ở trước cơ thắt lưng lớn, nó bắt chéo trước thần kinh sinh dục đùi và bắt chéo sau các mạch tuyến sinh dục (tinh hoàn hoặc buồng trứng). Ngay trước khi đi vào chậu hông bé, nó bắt chéo trước động mạch chậu ngoài ở bên phải và động mạch chậu chung ở bên trái. Chỗ niệu quản bắt chéo các động mạch chậu ở cách đường giữa khoảng 4 – 5 cm. Đối chiếu lên thành bụng điểm, đau niệu quản (do sỏi kẹt lại ở chỗ bắt chéo này) nằm ở chỗ nối các đoạn 1/3 ngoài và 1/3 giữa của đường nối hai gai chậu trước trên. Phía trong, niệu quản phải liên quan với tĩnh mạch chủ dưới, niệu quản trái liên quan với động mạch chủ bụng.

Niệu quản phải còn bị phần xuống tá tràng trùm lên và bị bắt chéo trước bởi các mạch đại tràng phải và hồi đại tràng. Niệu quản trái bắt chéo rễ mạc treo đại tràng sigma và bị bắt chéo trước bởi các mạch đại tràng trái.

2.2. Đoạn chậu hông

Đoạn này đi từ đường cung xương chậu tới lỗ niệu quản của bàng quang trong mô ngoài phúc mạc. Lúc đầu, nó đi xuống về phía sau – ngoài trên thành bên của chậu hông. Khi tới ngang mức gai ngồi, nó chạy vòng về phía trước – trong qua sàn chậu hông để tới đáy bàng quang. Ở thành bên chậu hông, nó đi cùng các mạch chậu trong và sau các mạch này là thân thắt lưng cùng và khớp cùng chậu. Ở phía ngoài, nó tiếp xúc với mạc cơ bịt trong và bắt chéo các mạch và thần kinh bịt. Đoạn thành chậu hông của niệu quản nữ nằm ngay sau buồng trứng và tạo nên giới hạn sau của hố buồng trứng. Ở đoạn sàn chậu hông, niệu quản nam bắt chéo sau – dưới ống dẫn tinh rồi chạy giữa bàng quang và cực trên tuyến tỉnh trước khi xuyên vào bàng quang; ở nữ, niệu quản đi qua nền dây chằng rộng, lướt ra trước ở bên ngoài phần trên âm đạo của cổ tử cung, ngay trên phần bên vòm âm đạo (nơi ta có thể sờ thấy sỏi niệu quản qua âm đạo), và bắt chéo phía sau – dưới động mạch tử cung ở nơi cách cổ tử cung khoảng 1,5 cm.

Khi tới bàng quang, niệu quản chạy xuyên trong thành bàng quang từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong. Đoạn nội thành bàng quang dài 2,2 cm và đổ vào bàng quang tại lỗ niệu quản. Hai lỗ niệu quản cách nhau khoảng 2,5 cm khi bàng quang rỗng.

2.3. Mạch và thần kinh

Niệu quản được cấp máu bởi các nhánh niệu quản của động mạch thận; động mạch sinh dục; động mạch bàng quang dưới hoặc động mạch tử cung.

Máu tĩnh mạch từ niệu quản đổ về các tĩnh mạch đi kèm động mạch.

Các nhánh thần kinh của niệu quản xuất phát từ đám rối hạ vị và đám rối thận.

Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC

Tham gia nhóm zalo: Tài Liệu Y Học Tổng Hợp

Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

error: Content is protected !!
All in one