Mũi, Thần Kinh Khứu Giác, Hầu – Giải Phẫu Y Hà Nội

Bài 16

MŨI, THẦN KINH KHỨU GIÁC, HẦU

MỤC TIÊU

1. Mô tả được: mũi ngoài và các thành của ổ mũi xương; các xoang cạnh mũi; niêm mạc mũi và thần kinh khứu giác.

2. Mô tả được các thành của tị hầu, khẩu hầu và thanh hầu; cấu tạo của hầu và vòng của các hạnh nhân quanh hầu.

3. Nêu được các liên hệ chức năng và lâm sàng thích hợp.

1. MŨI

Mũi là cơ quan đầu tiên của hệ hô hấp mà không khí phải đi qua để vào phổi và là nơi bắt đầu của quá trình làm ấm, làm ẩm và lọc sạch không khí; nó cũng là cơ quan khứu giác và phát âm. Ba phần hợp nên mũi là mũi ngoài, ổ mũi và các xoang cạnh mũi.

1.1. Mũi ngoài

Giải Phẫu mũi ngoài

Hình 16.1. Mũi ngoài

Là phần mũi lộ ra ở chính giữa mặt, mũi ngoài gồm một khung xương – sụn được phủ bằng da ở mặt ngoài và niêm mạc ở mặt trong.

Hình thể ngoài: Mũi ngoài có hình tháp. Góc trên của tháp mũi liên tiếp với trán tại gốc mũi; nơi gặp nhau của hai mặt bên tháp mũi trên đường giữa là một gờ tròn gọi là sống mũi. Sống mũi tận cùng tại một đầu tự do ở phía trước – dưới có tên là đỉnh mũi; các mặt bên tháp mũi mở rộng và tận cùng ở phía dưới tại các cánh mũi. Ở phía dưới, ở hai bên đỉnh mũi có hai lỗ mũi trước ngăn cách nhau bởi vách mũi.

Cấu tạo: Bộ khung chống đỡ cho mũi ngoài được cấu tạo bằng xương và sụn. Khung xương chống đỡ cho phần trên của mũi bao gồm các xương mũi, phần mũi xương trán và các mỏm trán của xương hàm trên. Khung sụn nâng đỡ cho phần dưới của mũi bao gồm các sụn cánh mũi lớnnh, các sụn mũi ph, các sụn mũi bênsụn vách mũi.

1.2. Ổ mũi

Giải phẫu ổ mũi

Hình 16.2. Ổ mũi

Ổ mũi được vách mũi chia dọc thành hai ngăn; mỗi ngăn mở thông ra mặt tại lỗ mũi trước, liên tiếp với tụ hầu ở sau qua lỗ mũi sau và có bốn thành. Phần trước của mỗi ngăn ổ mũi là tiền đình mũi nằm ở ngay sau lỗ mũi trước. Tiền đình ngăn cách với phần ổ mũi còn lại bởi một đường gờ cong gọi là thềm mũi. Da phủ tiền đình mũi có lông và tuyến nhầy để cản bụi.

Thành trên hay trần ổ mũi là thành xương ngăn cách ổ mũi với hộp sọ do các xương mũi, xương trán, mảnh sàng và thân xương bướm tạo nên.

Thành dưới hay sàn mũi là thành xương ngăn cách ổ mũi với ổ miệng do mỏm khẩu cái xương hàm trên và mảnh ngang xương khẩu cái tạo nên.

Thành trong hay vách mũi là một vách xương – sụn tạo nên bởi mảnh thẳng xương sàng và xương lá mía ở sau và sụn vách mũi ở trước.

Thành ngoài chủ yếu do xương hàm trên, mê đạo sàng và xương xoăn mũi dưới tạo nên. Thành này gồ ghề do có ba xoăn mũi (xương xoãn) nhô lên: các xoăn mũi trên, giữadưới; ở phía dưới – ngoài mỗi xoăn mũi, giữa xoăn mũi và thành ngoài, là một ngách mũi có tên tương ứng: các ngách mũi trên, giữadưới. Vùng nằm trên xoăn mũi trên là ngách bướm – sàng. Ngách mũi trên có lỗ đổ của xoang sàng sau; ngách mũi giữa là nơi mở thông của xoang trán, nhóm xoang sàng giữa – trước và xoang hàm trên; ngách mũi dưới là nơi đổ vào của ống lệ mũi.

Niêm mạc ổ mũi: Trừ tiền đình mũi được che phủ bởi da, phần còn lại của ổ mũi được phủ bởi niêm mạc. Niêm mạc được chia thành vùng hô hấp và vùng khứu.

Vùng hô hấp là vùng dưới xoăn mũi trên. Niêm mạc ở đây là lớp thượng mô trụ có lông chuyển dính chặt vào cốt mạc hoặc sụn và liên tiếp với niêm mạc của các xoang; nhiễm khuẩn ở niêm mạc mũi có thể lan tới các xoang. Sự dồi dào về mạch máu của vùng này làm cho nó có màu hồng.

Vùng khứu là vùng trên xoăn mũi trên, có màu vàng xám vì có ít mạch máu và chứa các tế bào khứu giác.

1.3. Thần kinh khứu giác

Thần kinh khứu giác truyền về não cảm giác về mùi. Các tế bào nguyên uỷ của thần kinh khứu giác nằm trong vùng niêm mạc khứu giác của ổ mũi; vùng này bao gồm niêm mạc phủ mặt trên xoăn mũi trên, trần ổ mũi và phần vách mũi đối diện xoăn mũi trên. Các tế bào cảm thụ khứu giác là những nơron hai cực với các đầu tận cùng nhánh gai của chúng nằm ở bề mặt của niêm mạc khứu, các nhánh trục (nhánh trung ương) hợp thành các bó. Các bó này đan với nhau thành một mạng lưới như đám rối trong niêm mạc khứu, cuối cùng tạo nên khoảng 20 nhánh đi qua các lỗ của mảnh sàng như là thần kinh khứu giác và tận cùng ở hành khứu. Mỗi nhánh có một bao do các lớp của màng não tạo nên. Các sợi của thần kinh khứu giác không có myelin mà được bọc trong các tế bào Schwann.

Hành khứu và các tiếp nối trung ương

Hành khứu nằm trên mảnh sàng và liên tiếp ở sau với dải khứu. Nó chứa đựng một số loại nơron, bao gồm các interneuron và các tế bào mũ ni. Các tế bào mũ ni tiếp xúc synap trực tiếp với các sợi của thần kinh khứu và chiếu sợi trục của chúng tới vân khứu bên.

Nhân khứu trước trong dải khứu chứa các nhóm nơron. Một trong các nhóm này là nguyên uỷ của phần khứu của mép trước. Các tế bào này tiếp nhận sợi đến từ hành khứu cùng bên và gửi sợi trục của chúng ngang qua mép trước tới hành khứu bên đối diện.

Dải khứu nằm trong rãnh khứu của thuỳ trán, bên ngoài hồi thẳng của vùng vỏ ổ mắt – trán. Dải khứu tách đôi thành các vân trong và ngoài. Một số sợi của vân khứu trong là sợi trục của các nơron nhân khứu trước, và chúng đi qua mép trước tới hành khứu bên đối diện. Các sợi còn lại, tức những sợi tận cùng ở củ khứu cùng bên trong chất thủng trước, là những sợi trục của các tế bào mũ ni từ hành khứu. Các tế bào mũ ni chỉ chiếu sợi tới cùng bên.

Tạo nên chủ yếu bằng các sợi trục của tế bào mũ ni, vân khứu ngoài cho các sợi đến tận cùng ở vỏ não hình quả lê (vùng vỏ khứu thứ nhất) ở bờ ngoài chất thủng trước, ở một phần nhỏ phía trước của vùng vỏ entorhinal, và ở vùng vỏ hạnh nhân trong. Hệ thống khứu giác là hệ thống cảm giác duy nhất mà ở đó các nơron cảm giác chặng thứ hai chiếu trực tiếp lên vỏ đại não. Vùng vỏ khứu giác thứ nhất cho sợi đi tới vùng vổ mắt – trán bên cả trực tiếp và gián tiếp qua đồi thị. Các tiếp nối vỏ – vỏ giữa cực thái dương và vỏ não ổ mắt – trán có thể là quan trọng trong phân biệt khứu giác.

Tổn thương các cấu trúc khứu giác. Mất cảm giác ngửi là hậu quả của nhiều tổn thương như: gãy mảnh sàng làm tổn thương hành khứu và dải khứu, các nhiễm trùng, khối u màng não hay u thuỳ thái dương lân cận…

Sơ đồ thần kinh khứu giác

Hình 16.3. Sơ đồ thần kinh khứu giác

1.4. Các xoang cạnh mũi

Các xoang cạnh mũi là các hốc ở trong các xương xung quanh ổ mũi. Chúng mở vào ổ mũi và được lót bằng một lớp niêm mạc liên tiếp với niêm mạc của ổ mũi.

Xoang hàm trên là xoang lớn nằm trong thân xương hàm trên và mở thông vào ngách mũi giữa. Đáy của xoang này thấp hơn nền hốc mũi khoảng 0,5 – 1 cm nên mủ dễ ứ đọng.

Các tiểu xoang sàng: Có từ 4 – 17 hốc khí trong mê đạo sàng được xếp làm ba nhóm: nhóm trướcgiữa đổ vào ngách mũi giữa, nhóm sau đổ vào ngách mũi trên.

Xoang trán nằm trong phần trai trán và đổ vào ngách mũi giữa.

Xoang bướm nằm trong thân xương bướm và đổ vào ngách bướm – sàng.

Thành ngoài ổ mũi và các lỗ đổ vào của các xoang cạnh mũi

Hình 16.4. Các lỗ vào của các xoang cạnh mũi

1.5. Mạch máu và thần kinh của mũi

Mạch máu: Ổ mũi được cấp máu bởi hai động mạch: động mạch sàng trước (nhánh của động mạch mắt) phân nhánh vào phần trước ổ mũi và niêm mạc các xoang trán và xoang sàng trước; động mạch bướm – khẩu cái (nhánh của động mạch hàm trên) cấp máu cho phần còn lại của ổ mũi. Có một vùng dễ chảy máu (chảy máu cam) gọi là điểm mạch nằm ở vách mũi, cách lỗ mũi ngoài khoảng 1,5 cm. Tĩnh mạch thường kèm theo động mạch. Bạch huyết đổ vào các hạch cổ sâu. Thần kinh cảm giác chi phối vùng mũi ngửi là các tế bào khứu giác; chi phối cảm giác chung là thần kinh hàm trên và thần kinh mắt (các nhánh của thần kinh sinh ba). Chi phối giao cảm và đối giao cảm là các nhánh của hạch chân bướm – khẩu cái.

1.6. Giải phẫu lâm sàng của mũi và các xoang cạnh mũi

Các biến dạng mũi bẩm sinh có thể xảy ra. Vách mũi có thể bị lệch đi do một chấn thương hoặc một khiếm khuyết bẩm sinh nào đó; đôi khi, vách có thể lệch mức đến nỗi nó chạm vào một thành bên, gây tắc hoàn toàn một bên mũi.

Viêm mủ trong các xoang cạnh mũi thường xảy ra và mủ trong các xoang trán và sàng trước có thể chảy qua lỗ bán nguyệt vào xoang hàm trên, và như vậy xoang hàm trên trở thành nơi chứa mủ thứ phát. Tất cả các xoang cạnh mũi có thể bị nhiễm khuẩn từ ổ mũi nhưng một nhiễm trùng của xoang hàm trên cũng có thể là do lan từ răng lên, và xoang này là xoang thường bị nhiễm khuẩn mạn tính nhất, dẫn tới mất các lông niêm mạc. Vì lỗ xoang hàm trên ở cao hơn sàn xoang, sự dẫn lưu tự nhiên của xoang bị trở ngại và cần chọc vào thành ngoài của ngách mũi dưới hoặc qua hố nanh trên mặt trước xương hàm trên (nằm gần sàn xoang hơn) để dẫn lưu.

Thiết đồ đứng ngang qua mũi

Hình 16.5. Thiết đồ đứng ngang qua mũi – các xoang cạnh mũi

2. HẦU

Hầu là một ống cơ – sợi được phủ bởi niêm mạc, dài chừng 12 – 14 cm, đi từ nền sọ tới đầu trên của thực quản ở ngang mức đốt sống cổ VI. Hầu nằm trước cột sống cổ; nó mở thông ở phía trước vào ổ mũi, ổ miệng và thanh quản và được chia thành ba phần ứng với các ổ này: phần mũi, phần miệngphần thanh quản.

2.1. Hình thể ngoài

2.1.1. Phần mũi của hầu hay tỵ hầu

Phần này nằm ngay sau lỗ mũi sau, trên khẩu hầu và được ngăn cách với khẩu hầu bằng khẩu cái mềm trong lúc nuốt. Thành trênsauvòm hầu; vòm ứng với vùng niêm mạc phủ mặt dưới của thân xương bướm, phần nền xương chẩm và cung trước đốt đội. Niêm mạc ở đây có nhiều mô dạng bạch huyết tạo nên hạnh nhân hầu. Hạnh nhân này to ở trẻ dưới 7 tuổi và hay bị viêm. Ở mỗi thành bên có một lỗ hầu của vòi tai; vòi tai là ống thông ty hầu với hòm nhĩ. Mô dạng bạch huyết ở quanh lỗ hầu của vòi tai tạo nên hạnh nhân vòi. Hạnh nhân vòi bị viêm có thể làm bít lỗ, gây ù tai, và nhiễm trùng có thể lan tới tai giữa.

Hầu thiết đồ đứng dọc

Hình 16.6. Thiết đồ đứng dọc qua hầu

2.1.2. Phần miệng của hầu hay khẩu hầu

Khẩu hầu thông ở dưới với thanh hầu và thông ra trước với ổ miệng qua eo họng. Eo họng được giới hạn ở trên bởi lưỡi gàhai cung khẩu cái lưỡi và ở dưới bởi mặt lưng lưỡi. Ở dưới eo họng, phần mặt lưng lưỡi ở sau chữ V lưỡi dựng đứng như một tường nằm trước phần dưới khẩu hầu. Mô dạng bạch huyết trong niêm mạc phần này được gọi là hạnh nhân lưỡi. Thành sau nằm trước các đốt sống cổ II và III. Trên mỗi thành bên khẩu hầu có hai nếp niêm mạc từ khẩu cái mềm đi xuống: cung khẩu cái lưỡi ở phía trước và cung khẩu cái hầu ở sau. Giữa hai cung là một hố chứa hạnh nhân khẩu cái. Hai hạnh nhân khẩu cái cùng với hạnh nhân lưỡi, hai hạnh nhân vòi và hạnh nhân hầu tạo nên vòng bạch huyết quanh hầu.

2.1.3. Phần thanh quản của hầu hay thanh hầu

Thanh hầu liên tiếp với khẩu hầu ở trên và thực quản ở dưới. Nó nằm trước các đốt sống cổ III, IV và V. Ở trước thanh hầu là thanh quản nhưng có thể phân biệt thành hai phần: phần trên là lỗ (đường) vào thanh quản, phần dưới ngăn cách với ổ thanh quản bằng sụn phễu, sụn nhẫn và cơ gian phễu. Khi nuốt, thượng thiệt hạ xuống đậy lỗ vào thanh quản.

Các cơ của hầu thiết đồ đứng dọc

Hình 16.7. Các cơ của hầu – thiết đồ đứng dọc

2.2. Cấu tạo

Hầu được cấu tạo bằng ba lớp mô. (1) Áo niêm mạc. Niêm mạc tị hầu thuộc loại thượng mô trụ có lông chuyển liên tiếp với niêm mạc ổ mũi và vòi tai; niêm mạc thanh hầu và khẩu hầu là thượng mô lát tầng liên tiếp với niêm mạc miệng, thanh quản và thực quản. (2 ) Tấm dưới niêm mạc. (3) Áo cơ gồm hai lớp: lớp ngoài là ba cơ khít hầu dưới, giữa và trên; lớp trong là cơ vòi hầu và cơ trâm hầu. Các cơ khít hầu đóng vai trò quan trọng trong cơ chế nuốt.

2.3. Mạch máu và thần kinh

Hầu được cấp máu bởi các nhánh của động mạch cảnh ngoài, động mạch mặt và động mạch hàm trên. Tĩnh mạch đổ về tĩnh mạch mặt và đám rối hầu rồi đổ về tĩnh mạch cảnh trong. Bạch mạch đổ vào hạch sau hầu và chuỗi hạch cảnh trong. Thần kinh chi phối là các nhánh của dây thần kinh IX và X cảm giác cho hầu; các cơ hầu do nhánh của thần kinh X vận động.

Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC

Tham gia nhóm zalo: Tài Liệu Y Học Tổng Hợp

Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

All in one