Bài 17
THANH QUẢN, KHÍ QUẢN, TUYẾN GIÁP VÀ TUYẾN CẬN GIÁP
MỤC TIÊU1. Mô tả được vị trí – liên quan, hình thể và cấu tạo của thanh quản và khí quản; vị trí và hình thể của các tuyến có liên quan. 2. Nêu được các liên hệ chức năng và lâm sàng thích hợp. |
1. THANH QUẢN
Thanh quản là phần đường dẫn khí nằm giữa hầu và khí quản và là cơ quan phát âm chính.
Ở người lớn, thanh quản nằm lộ ở phần trước cổ, đối điện với các đốt sống cổ III, IV, V và VI.
Thanh quản của nam dài và to hơn của nữ. Trước tuổi dậy thì, kích thước của thanh quản ở hai giới ít khác biệt. Sau đó, thanh quản của nam phát triển hơn thanh quản của nữ.
Thanh quản được cấu tạo bởi những sụn nối với nhau bằng các dây chằng và các màng; khớp giữa các sụn được vận động bởi các cơ.
Hình 17.1. Các sụn thanh quản và các khớp thanh quản – nhìn trước – sau – trước trên
1.1. Các sụn của thanh quản và các khớp thanh quản
Các sụn của thanh quản gồm sụn giáp, sụn nhẫn, sụn phễu, sụn thượng thiệt và sụn sừng.
Sụn giáp là sụn đơn gần giống quyển sách mở ra sau. Nó có hai mảnh phải và trái gắn với nhau ở trước tại lồi thanh quản. Ở trên lồi thanh quản, các mảnh bị tách ra bởi khuyết giáp trên. Bờ sau của hai mảnh cách xa nhau, bờ sau của mỗi mảnh kéo dài ra thành sừng trên và sừng dưới. Sừng dưới khớp với mặt bên mảnh sụn nhẫn tại khớp nhẫn – giáp.
Sụn nhẫn là một sụn đơn hình nhẫn nằm dưới sụn giáp, bao gồm mảnh sụn nhẫn ở sau và cung sụn nhẫn ở trước. Các mặt bên của mảnh khớp với hai sừng dưới sụn giáp, bờ trên khớp với các sụn phễu. Bờ dưới sụn nhẫn liên kết với vòng sụn thứ nhất của khí quản bằng một màng.
Hai sụn phễu nằm ở bờ trên mảnh sụn nhẫn, ở hai bên đường giữa. Mỗi sụn có hình tháp ba mặt, một đỉnh khớp với sụn sừng, và một đáy khớp với bờ trên mảnh sụn nhẫn tại khớp nhẫn – phễu. Đáy hình tam giác mà góc trước gọi là mỏm thanh âm cho dây chằng thanh âm bám, góc ngoài là mỏm cơ cho một số cơ của thanh quản bám. Sụn sừng là đôi sụn nhỏ nằm ở đỉnh hai sụn phễu.
Sụn thượng thiệt hay sụn nắp thanh quản là sụn đơn hình chiếc lá mà cuống lá dính vào góc giữa hai mảnh sụn giáp.
Hình 17.2. Các sụn thanh quản và các dây chằng thay quản
1.2. Các màng và các dây chằng
Các sụn được gắn với nhau và với xương móng và sạn khí quản bằng các dây chằng và màng.
Màng giáp – móng căng từ bờ trên sụn giáp tới thân và sừng lớn xương móng.
Màng tứ giác có bốn bờ: bờ trên được phủ bằng nếp phễu – nắp; bờ dưới là dây chằng tiền đình đi từ góc sụn giáp tới mặt trước – bên sụn phễu và được nếp tiền đình che phủ; bờ trước bám vào góc sụn giáp và sụn thượng thiệt; bờ sau bám vào sụn sừng và sụn phễu.
Nón đàn hồi còn gọi là màng nhẫn – thanh âm: bờ dưới dính vào bờ trên sụn nhẫn, bờ trên gọi là dây chằng thanh âm đi từ góc sụn giáp tới mỏm thanh âm của sụn phễu và được nếp thanh âm che phủ.
Dây chằng nhẫn – giáp giữa căng từ bờ trên của cung sụn nhẫn tới bờ dưới sụn giáp.
Dây chằng nhẫn – khí quản nối bờ dưới sụn nhẫn tới bờ trên vòng sụn khí quản đầu tiên.
Dây chằng nhẫn – hầu từ mảnh sụn nhẫn ra sau tận hết trong niêm mạc hầu.
Dây chằng nhẫn – phễu đi từ phần sau sau bờ trên mảnh sụn nhẫn tới bờ sau của đáy sụn phễu.
Các dây chằng của thượng thiệt. Sụn thượng thiệt được gắn vào xương móng bởi dây chằng móng – thượng thiệt, vào rễ lưỡi bởi nếp lưỡi – thượng thiệt giữa và hai nếp lưỡi – thượng thiệt bên, vào sụn giáp bởi dây chằng giáp – thượng thiệt.
1.3. Các cơ của thanh quản
Cả khối thanh quản quản được vận động bởi các cơ từ những cấu trúc xung quanh đi tới thanh quản (cơ ngoại lai); các sụn thanh quản dịch chuyển lên nhau nhờ những cơ có cả hai đầu bám ở sụn thanh quản (cơ nội tại). Các cơ nội tại đều do thần kinh thanh quản quặt ngược chi phối, trừ cơ nhẫn – giáp do thần kinh thanh quản trên.
Hình 17.3 Các cơ nội tại thanh quản nhìn sau và nhìn bên
Hình 17.4. Các cơ nội tại thanh quản phẫu tích mặt bên và nhìn trên
Các cơ ngoại lai bao gồm các cơ trên móng và các cơ dưới móng. Chúng có tác dùng nâng, hạ và cố định thanh quản.
Các cơ nội tại
Cơ nhẫn – giáp đi từ mặt ngoài cung sụn nhẫn tới bờ dưới mảnh sụn giáp. Khi cơ ở cả hai bên cùng co, sụn giáp bị kéo xuống dưới và ra trước, làm căng dây thanh âm và khép nếp thanh âm.
Hình 17.5. Tác dụng của các cơ nhẫn giáp
Cơ nhẫn – phễu sau đi từ mặt sau mảnh sụn nhẫn đến mỏm cơ sụn phễu, có tác dụng kéo mỏm cơ ra sau và xoay mỏm thanh âm ra ngoài, làm mở khe thanh môn.
Cơ nhẫn – phễu bên đi từ bờ trên cung sụn nhẫn đến mỏm cơ sụn phễu, có tác dụng kéo mỏm cơ ra trước và xoay mỏm thanh âm vào trong, làm khép khe thanh môn.
Hình 17.6. Tác dụng của các cơ nhẫn – phễu sau và cơ nhẫn – phếu bên
Cơ phễu ngang và cơ phễu chéo đi từ sụn phễu bên này đến sụn phễu bên đối diện, có tác dụng làm khép thanh môn.
Cơ giáp – phễu đi từ mặt trong mảnh sụn giáp và nón đàn hồi tới mỏm cơ sụn phễu, có tác dụng khép thanh môn và làm trùng dây thanh âm.
Hình 17.7. Tác dụng của cơ phễu ngang, cơ thanh âm và cơ giáp phễu
Cơ thanh âm trà trộn lẫn vào cơ giáp phễu, đi từ góc giữa hai mảnh sụn giáp đến mỏm thanh âm sụn phễu, có tác dụng làm thay đổi độ căng của nếp thanh âm khi phát âm.
1.4. Ổ thanh quản
Ổ thanh quản thông với hầu tại lỗ (hay đường) vào thanh quản. Lỗ hướng ra sau và hơi lên trên nền thành trước thanh quản dài hơn thành sau. Lỗ được giới hạn bởi bờ trên của thượng thiệt ở trước, nếp gian phễu ở sau và các nếp phễu – thượng thiệt ở hai bên.
Ổ thanh quản đi từ lỗ (đường) vào thanh quản tới chỗ tiếp nối thanh – khí quản. Có hai cặp nếp niêm mạc từ thành ổ nhô vào lòng ổ: ở trên là hai nếp tiền đình giới hạn nên khe tiền đình, ở dưới là hai nếp thanh âm nằm ở hai bên của phần trước khe thanh môn. Các nếp và khe chia ổ thanh quản thành ba phần: phần trên là tiền đình thanh quản đi từ lỗ vào thanh quản tới các nếp tiền đình, phần dưới là ổ dưới thanh môn đi từ các nếp thanh âm tới bờ dưới sụn nhẫn và phần giữa là phần thắt hẹp của ổ đi từ khe tiền đình tới khe thanh môn (còn được gọi là ổ thanh quản trung gian).
Ở mỗi bên, khe nằm giữa các nếp thanh âm và tiền đình được gọi là thanh thất (hay buồng thanh quản).
Nếp tiền đình và nếp thanh âm là những nếp niêm mạc phủ lên các dây chằng cùng tên: dây chằng tiền đình đi từ góc sụn giáp tới mặt trước – bên sụn phễu, dây chằng thanh âm đi từ góc sụn giáp tới mỏm thanh âm sụn phễu. Khe thanh môn hẹp hơn khe tiền đình; nó gồm hai phần: phần gian màng ở trước, nằm giữa các nếp thanh âm và phần gian phễu ở sau, nằm giữa các sụn phễu; khe được giới hạn ở sau bởi màng niêm mạc cũng giữa các sụn phễu (nếp gian phễu). Như vậy, khe thanh môn là nơi hẹp nhất của ổ thanh quản; nó và các cấu trúc vây quanh (nếp thanh âm, sụn phễu và nếp gian phễu) được gọi chung là thanh môn. Ô thanh quản rộng dần ra từ thanh môn ngược lên tới lỗ vào thanh quản (hình phễu) và xuôi xuống tới khí quản (hình phễu ngược).
2. Khí quản
2.1. Liên quan
Khí quản đi qua cổ và ngực. Ở cổ, nó nằm trước thực quản, giữa hai bó mạch cảnh, sau eo tuyến giáp và các cơ dưới móng. Các cơ dưới móng không che kín mặt trước khí quản mà để hở một khe hình trám gọi là trám mở khí quản. Vùng hở này chỉ có da và mạc che phủ nên có thể mở khí quản tại đây khi cần. Ở ngực, khí quản nằm trong trung thất trên. Nó nằm trước thực quản, giữa hai ổ màng phổi và sau cung động mạch chủ cùng các nhánh của cung này. Phía trước các động mạch là tĩnh mạch tay đầu trái và tuyến ức.
2.2. Cấu tạo
Khí quản là một ống cấu tạo bằng lớp sụn, sợi và cơ trơn ở ngoài và được lót ở trong bằng niêm mạc. Lớp sụn – sợi – cơ trơn gồm 16 – 20 vòng sụn hình chữ C, khuyết ở phía sau, nằm chồng lên nhau. Mỗi vòng dày 1 mm, cao 2 – 5 mm. Các màng sợi gồm hai lớp phủ ngoài và trong các vòng sụn và nối các vòng sụn lại với nhau. Riêng phía sau chỉ có các sợi cơ và sợi đàn hồi căng giữa các đầu vòng sụn tạo nên thành màng. Các phiến cơ này, gọi là cơ khí quản, dày 1 – 2 mm. Lớp niêm mạc lót mặt trong khí quản thuộc loại thượng mô trụ có lông và có nhiều tuyến gọi là tuyến khí quản.
Hình 17.8. Cấu trúc của khí quản
2.3. Mạch và thần kinh
Động mạch. Khí quản được cấp máu bởi động mạch giáp dưới ở trên và các nhánh phế quản của động mạch chủ ngực ở dưới.
Tĩnh mạch đi kèm động mạch và đổ vào đám rối tĩnh mạch giáp dưới.
Bạch mạch đổ vào các hạch bạch huyết trước và cạnh khí quản.
3. TUYẾN GIÁP
Tuyến giáp là một cơ quan màu đỏ nâu và giàu mạch máu nằm ở mặt trước phần dưới của cổ, ngang mức các đốt sống từ cổ V tới ngực I. Được bọc trong lá trước khí quản của mạc cổ, nó có các thuỳ phải và trái nối với nhau bởi một eo hẹp nằm ở giữa. Trọng lượng của nó thường vào khoảng 25 g nhưng biến đổi, hơi nặng hơn ở nữ, và to ra trong kì kinh nguyệt và khi có thai. Ước lượng kích thước của tuyến giáp có tầm quan trọng lâm sàng trong đánh giá và kiểm soát các rối loạn tuyến giáp; có thể đạt được điều này một cách không xâm nhập bằng phương tiện siêu âm chẩn đoán.
Hình 17.9. Tuyến giáp và các cấu trúc liên quan (nhìn trước)
Mỗi thuỳ tuyến giáp gần có hình nón; đỉnh của nó nằm ở ngang mức đường chếch của mảnh sụn giáp; nền của nó ngang mức với vòng sụn khí quản thứ tư hoặc thứ năm. Mỗi thuỳ dài khoảng 5 cm, các kích thước ngang và trước – sau lớn nhất lần lượt là khoảng 3 cm và 2 cm. Mặt sau – trong của nó được gắn với mặt bên của sụn nhẫn bằng dây chằng giáp bên. Mặt nông (ngoài) thì lỗi và được che phủ bằng cơ ức – giáp; chỗ bám của cơ này vào đường chéo sụn giáp ngăn không cho cực trên của tuyến giáp mở rộng lên tới cơ giáp móng. Ở nông hơn cơ ức – giáp là cơ ức – móng và bụng trên của cơ vai móng, bị chùm lên ở phía dưới bởi bờ trước cơ ức đòn chũm. Mặt trong thích ứng với hình thể của thanh quản và khí quản, tiếp xúc ở cực trên với cơ khít hầu dưới và phần sau của cơ nhẫn – giáp; cơ nhẫn – giáp ngăn cách nó với phần sau của mảnh sụn giáp và mặt bên của sụn nhẫn. Thần kinh thanh quản ngoài nằm ở trong phần này của tuyến trên đường nó đi tới cơ nhẫn – giáp. Ở phía dưới, mặt trong liên quan với khí quản và ở sau khí quản là thần kinh thanh quản quặt ngược và thực quản. Mặt sau ngoài nằm sát với bao cảnh, trùm lên động mạch cảnh chung. Bờ trước nằm gần nhánh trước của động mạch giáp trên, chạy chếch xuống dưới và vào trong. Bờ sau tròn, liên quan ở dưới với động mạch giáp dưới và nhánh sau của động mạch giáp trên. Các tuyến cận giáp thường liên quan với bờ này.
Hình 17.10. Tuyến giáp và tuyến cận giáp (nhìn sau)
Eo tuyến giáp nối các phần dưới của các thuỳ; nó đo được khoảng 1,25 cm theo chiều ngang và chiều thẳng đứng và thường nằm trước các sụn khí quản thứ hai hoặc thứ ba. Ở trước eo là cơ ức – giáp; ở nông hơn nữa là cơ ức – móng, các tĩnh mạch cảnh trước, mạc và da. Các động mạch giáp trên tiếp nối dọc bờ trên của eo; các tĩnh mạch giáp dưới rời khỏi tuyến tại bờ dưới của eo.
Một thuỳ tháp hình nón thường từ eo đi lên về phía xương móng
Một tuyến giáp to bất thường được gọi là bướu tuyến giáp. Bướu này có thể chèn ép vào các cấu trúc xung quanh. Thần kinh thanh quản quặt ngược có thể bị ảnh hưởng do bị chèn ép hoặc bị tổn thương trong phẫu thuật cắt tuyến giáp; nếu thần kinh thanh quản ngoài hoặc cơ nhẫn – giáp (được thần kinh thanh quản ngoài chi phối và làm căng các dây thanh âm) bị tổn thương, giọng nói trở nên có cao độ không thay đổi và hơi run. Vì thần kinh thanh quản quặt ngược ở gần động mạch giáp dưới, thần kinh dễ bị tổn thương khi thắt động mạch này. Trong cắt một phần tuyến giáp, phần sau của hai thuỳ tuyến được giữ lại để bảo tồn các tuyến cận giáp.
4. CÁC TUYẾN CẬN GIÁP
Các tuyến cận giáp là những cấu trúc nhỏ, màu nâu vàng, hình trứng, thường nằm giữa bờ sau thùy tuyến giáp và bao tuyến. Mỗi tuyến thường dài 6 mm, rộng ngang 3-4 mm, và 1-2 mm chiều trước – sau, nặng khoảng 50 mg. Thường có hai tuyến ở mỗi bên, một trên và một dưới. Cung tiếp nối giữa các động mạch giáp trên và dưới dọc bờ sau tuyến giáp thường đi rất sát các tuyến cận giáp.
Các tuyến cận giáp trên hằng định hơn về vị trí so với tuyến cận giáp dưới và thường nằm ở giữa bờ sau tuyến giáp nhưng đôi khi cao hơn. Tuyến cận giáp dưới có thể: (1) nằm trong bao mạc tuyến giáp, dưới động mạch giáp dưới và gần cực dưới; (2) ở ngoài bao, ngay trên động mạch giáp dưới; (3) trong tuyến giáp, ở gần cực dưới. So với thần kinh thanh quản quặt ngược, tuyến cận giáp trên thường ở sau, tuyến cận giáp dưới ở trước. Nếu tất cả các tuyến cận giáp bị cắt bỏ, cơn tetani sẽ xảy ra do hạ calci máu.
Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC
Tham gia nhóm zalo: Tài Liệu Y Học Tổng Hợp
Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY