Bài 18
PHẾ QUẢN CHÍNH, CUỐNG PHỔI VÀ PHỔI
MỤC TIÊU1. Mô tả được các phế quản chính và các thành phần tạo nên cuống phổi; liên quan giữa các thành phần chính của cuống phổi; hình thể ngoài, liên quan và cấu tạo của phổi; màng phổi; hình chiếu của các bờ phổi và các ngách màng phổi lên lồng ngực. 2. Nêu được các liên hệ chức năng và lâm sàng thích hợp. |
1. CÁC PHẾ QUẢN CHÍNH
1.1. Phế quản chính phải và các nhánh của nó
Phế quản chính phải rộng hơn, ngắn hơn và thẳng đứng hơn phế quản chính trái, dài khoảng 2,5 cm. Một vật từ bên ngoài thường đi vào phế quản chính bên phải hơn bên trái. Phế quản chính phải tách ra phế quản thuỳ trên rồi đi vào phổi phải. Cung tĩnh mạch đơn nằm trên nó và động mạch phổi phải lúc đầu nằm dưới, sau đó nằm trước nó. Tại rốn phổi, nơi động mạch phổi phải nằm dưới phế quản thuỳ trên và trước phế quản chính, nó chia thành phế quản thuỳ giữa và phế quản thuỳ dưới.
Phế quản thuỳ trên tách ra từ mặt ngoài phế quản chính và chạy về phía trên – ngoài để đi vào rốn phổi. Khi đi được 1 cm, nó tách ra ba phế quản phân thuỳ: phế quản phân thuỳ đỉnh cho đỉnh phổi, phế quản phân thuỳ sau cho phần sau – dưới của thuỳ trên và phế quản phân thuỳ trước cho phần còn lại của thuỳ trên.
Phế quản thuỳ giữa. Phế quản thuỳ giữa bắt đầu ở 2 cm dưới phế quản thuỳ trên, từ mặt trước của phế quản chính. Nó đi về phía trước – bên và sớm chia thành một phế quản phân thuỳ bên và một phế quản phân thuỳ giữa đi tới các phần giữa và bên của thuỳ giữa.
Phế quản thuỳ dưới. Phế quản này chạy tiếp theo phế quản chính bắt đầu từ nguyên uỷ của phế quản thuỳ giữa. Ở tại hoặc ngay dưới chỗ bắt đầu, nó tách ra một phế quản phân thuỳ trên. Nhánh này chạy về phía sau tới phần trên của thuỳ dưới. Sau khi tách phế quản phân thuỳ trên, phần tiếp tục của phế quản thuỳ dưới phải đi xuống dưới và ra sau. Nó tách ra từ mặt trước – trong phế quản phân thuỳ đáy giữa chạy về phía dưới – trong tới một vùng nhỏ nằm dưới rốn phổi; tiếp đó phế quản thuỳ dưới tách ra phế quản phân thuỳ đáy trước chạy xuống dưới và ra trước, phần còn lại sớm chia thành phế quản phân thuỳ đáy bên đi xuống phía dưới – bên và phế quản phân thuỳ đáy sau đi về phía sau – dưới. Ở trên 50% số trường hợp, phế quản thuỳ dưới phải tách ra phế quản phân thuỳ dưới đỉnh ở dưới phế quản phân thuỳ trên1- 3 cm. Nhánh này phân phối tới vùng phổi giữa các phân thuỳ trên và đáy sau.
Hình 18.1. Phế quản và các nhánh của nó
1.2. Phế quản chính trái và các nhánh của nó
Phế quản chính trái hẹp hơn và ít thẳng đứng hơn phế quản chính phải, dài gần 5 cm, và đi vào rốn phổi trái ở ngang mức đốt sống ngực VI. Chạy sang trái ở dưới cung động mạch chủ, nó bắt chéo trước thực quản, ống ngực và động mạch chủ xuống; động mạch phổi trái trước hết ở trước và sau đó nằm trên nó. Sau khi đi vào rốn phổi, nó chia thành một phế quản thuỳ trên và một phế quản thuỳ dưới.
Phế quản thuỳ trên trái: Tách ra từ mặt trước-bên của phế quản chính, phế quản này cong ra ngoài và sớm chia thành hai nhánh phế quản. Những phế quản này tương ứng với những nhánh của phế quản chính phải đi tới các thuỳ trên và giữa, nhưng ở bên trái cả hai được phân phối tới thuỳ trên trái và không có thuỳ giữa riêng biệt. Nhánh trên đi lên khoảng 1 cm, tách ra một phế quản phân thuỳ trước, sau đó chạy tiếp thêm 1 cm như là phế quản phân thuỳ đỉnh – sau trước khi chia thành các nhánh đỉnh và sau. Các phế quản phân thuỳ đỉnh, sau và trước phân phối như ở thuỳ trên phổi phải. Nhánh dưới chạy xuống tới phần trước – dưới của thuỳ trên (phần lưỡi), tạo nên phế quản lưỡi; phế quản lưỡi chia thành phế quản lưỡi trên và phế quản lưỡi dưới.
Phế quản thuỳ dưới trái: Nhánh này đi xuống về phía sau – bên khoảng 1 cm thì tách ra phế quản phân thuỳ trên ở mặt sau của nó; nhánh này phân phối như bên phải. Sau khi đi thêm 1-2 cm, phế quản thuỳ dưới chia thành một nhánh trước – giữa và một nhánh sau – bên. Nhánh trước – giữa chia thành các phế quản phân thuỳ đáy trước và đáy giữa, nhánh sau – bên thành các phế quản phân thuỳ đáy bên và đáy sau. Các vùng phổi mà các phế quản này đi tới giống như bên phải. Phế quản phân thuỳ đáy giữa là một nhánh độc lập của phế quản thuỳ dưới ở khoảng 10% số phổi. Một phế quản phân thuỳ dưới đỉnh tách ra từ phế quản thuỳ dưới trái gặp ở 30% số phổi.
1.3. Phân thuỳ phế quản – phổi
Những nhánh cấp một của các phế quản thuỳ bên phải và bên trái được gọi là các phế quản phân thuỳ vì mỗi nhánh này phân nhánh vào một đơn vị mô phổi riêng biệt về cấu trúc, độc lập về chức năng gọi là một phân thuỳ phế quản-phổi. Các phân thuỳ chính được gọi tên và đánh số như sau:
Phổi phải
Thuỳ trên: Phân thuỳ đỉnh (I), phân thuỳ sau (II), phân thuỳ trước (III)
Thuỳ giữa: Phân thuỳ bên (IV), phân thuỳ giữa (V)
Thuỳ dưới: Phân thuỳ trên (VI), phân thuỳ đáy giữa (VII), phân thuỳ đáy trước (VIII), phân thuỳ đáy bên (IX), phân thuỳ đáy sau (X)
Phổi trái
Thuỳ trên: Phân thuỳ đỉnh – sau (I+II), phân thuỳ trước (III), phân thuỳ lưỡi trên (IV), phân thuỳ lưỡi dưới (V)
Thuỳ dưới: Phân thuỳ trên (VI), phân thuỳ đáy giữa (VII), phân thuỳ đáy trước (VIII), phân thuỳ đáy bên (IX), phân thuỳ đáy sau (X)
Mỗi phân thuỳ được bao quanh bởi mô liên kết liên tiếp với màng phổi tạng, và là một đơn vị hô hấp riêng biệt.
Hình 18.2. Các phân thùy phế quản phổi nhìn bên
Hình 18.3. Các phân thùy phế quản phổi nhìn trong
1.4. Giải phẫu lâm sàng
Hiểu biết về sự chia nhánh của phế quản là không thể thiếu trong lúc soi phế quản và trong đọc các phim chụp phế quản. Nó cũng mang tính quyết định trong dẫn lưu tư thế của các vùng phổi bị nhiễm khuẩn. Phân thuỳ trên của thuỳ dưới là vị trí thường gặp của áp – xe sau khi bệnh nhân sặc thức ăn ở tư thế ngửa. Những vật từ bên ngoài đi vào có thể làm tắc một phế quản chính, phế quản thuỳ, phế quản phân thuỳ hoặc phế quản nhỏ hơn tuỳ theo kích thước của nó. Để hiểu những tác động của chúng và tìm cách đúng để can thiệp ngoại khoa, không thể không có hiểu biết về cách chia nhánh của phế quản. Cắt một phân thuỳ phổi là điều có thể thực hiện được trong khi các thủ thuật cắt bỏ rộng hơn có thể bao gồm cắt bỏ một số phân thuỳ, cắt thuỳ hoặc cắt toàn bộ phổi.
2. PHỔI
Phổi là cơ quan chính của hệ hô hấp, nơi xảy ra sự trao đổi khí giữa môi trường bên ngoài và cơ thể. Mỗi người có hai phổi nằm trong hai ổ màng phổi; khoảng nằm ở giữa hai ổ màng phổi gọi là trung thất.
2.1. Hình thể ngoài
Phổi là một tạng xốp và đàn hồi nên thể tích của nó thay đổi nhiều theo lượng khí chứa bên trong. Tỷ trọng của phổi nặng hơn nước khi chưa thở và nhẹ hơn nước khi đã thở. Phổi người lớn có có thể chứa tới 4500- 5000 ml không khí. Phổi trẻ em có màu hồng, phổi người lớn có màu xanh biếc hoặc xám.
Mỗi phổi có một đỉnh, một đáy và ba mặt ngăn cách nhau bằng các bờ; nó trông gần giống một nửa hình nón.
Các mặt phổi. Mặt sườn nhẵn và lồi áp vào mặt trong của lồng ngực, có các vết ấn lõm của xương sườn. Phần sau của mặt sườn áp vào phía bên cột sống ngực, trong rãnh phổi của lồng ngực, và được gọi là phần cột sống.
Mặt trung thất, hay mặt trong, lõm sâu do có ấn tim. Ở sau – trên ấn tim là một vùng hình vợt gọi là rốn phổi. Rốn là nơi các thành phần tạo nên phổi đi vào và đi ra khỏi phổi. Ở ngoài phổi, các thành phần này tạo nên cuống phổi. Màng phổi tạng bọc mặt trung thất tới rốn phổi thì quặt vào bọc cuống phổi và liên tiếp với màng phổi thành. Phần màng phổi bọc rốn và cuống phổi còn kéo dài xuống dưới tạo nên dây chằng phổi.
Mặt hoành hay bề mặt của đáy phổi (có thể coi đáy là vùng thấp của phổi), lõm, úp lên vòm hoành, qua cơ hoành liên quan với mặt trên của gan. Mủ của áp xe gan có thể vỡ qua cơ hoành lên ổ màng phổi. Riêng phổi trái còn liên quan qua cơ hoành với đáy vị và tỳ. Ngoài các mặt nói trên, phổi còn có các mặt gian thuỳ được ngăn cách bởi các khe gian thuỳ.
Đỉnh phổi. Đỉnh tròn, nhô lên vào nền cổ qua lỗ trên của lồng ngực.
Các bờ của phổi. Phổi có hai bờ, bờ trước và bờ dưới. Bờ trước là bờ sắc ngăn cách mặt sườn với mặt trung thất và trùm lên màng ngoài tim. Phần dưới bờ trước phổi trái có khuyết tim. Bờ dưới vây quanh mặt hoành và gồm hai đoạn: đoạn thẳng ở trong ngăn cách mặt hoành với mặt trung thất, đoạn cong ở ngoài ngăn cách mặt hoành với mặt sườn. “Bờ sau” là từ không được dùng trong thuật ngữ giải phẫu. Nó ứng với đường phân chia phần cột sống của mặt sườn với phần còn lại của mặt này và chạy dọc theo chỏm của các xương sườn.
Các khe và thuỳ phổi. Phổi phải được chia thành ba thuỳ trên, giữa và dưới bởi hai khe, khe chếch và khe ngang. Các khe từ bề mặt của phổi ăn sâu vào đến tận rốn phổi. Khe chếch đi qua cả ba mặt của phổi; nó ngăn cách thuỳ dưới với các thuỳ giữa và trên. Khe ngang ngắn hơn, chỉ thấy ở mặt sườn và mặt trung thất, ngăn cách thuỳ trên với thuỳ giữa. Phổi trái được chia thành hai thuỳ: thùy trên và thuỳ dưới bởi khe chếch. Thuỳ trên phổi trái có hai vùng là vùng đỉnh và lưỡi.
Hình 18.4. Mặt sườn của phổi
Hình 18.5. Mặt trung thất của phổi
2.2. Cấu tạo của phổi
Phổi được tạo nên từ toàn bộ các nhánh phân chia trong phổi của phế quản chính, động mạch và tĩnh mạch phổi, động mạch và tĩnh mạch phế quản, bạch huyết và các sợi thần kinh của đám rối phổi; mô liên kết xen giữa các thành phần trên và bao quanh phổi.
2.2.1. Sự phân chia của phế quản chính ở trong phổi và cấu tạo của cây phế quản
Hình 18.6. Sơ đồ đường dẫn khí trong phổi
Hai phế quản chính phải và trái tách ra từ khí quản ở ngang mức đốt sống ngực IV và tạo với nhau một góc khoảng 70 độ. Mỗi phế quản chính khi vào phổi sẽ phân chia nhỏ dần tới các phế nang. Toàn bộ các nhánh phân chia của phế quản gọi là cây phế quản. Sau khi qua rốn phổi, mỗi phế quản chính (bậc một) đi trong phổi theo hướng một trục gọi là thân chính. Từ thân chính tách ra các phế quản thùy (bậc hai) theo kiểu chia nhánh bên. Các phế quản thuỳ sẽ tách ra các phế quản phân thuỳ (bậc ba). Sự phân chia này khác nhau giữa hai phế quản chính.
Trong mỗi phân thuỳ phế quản – phổi, phế quản phân thùy lại phân chia thành các nhánh, rồi các nhánh này lại phân chia nhiều lần thành các phế quản nhỏ dần. Tất cả các phế quản trong phổi được giữ ở trạng thái mở thông nhờ các mảnh sụn; các sụn này giảm dần về số lượng và kích thước sau mỗi lần phân chia và biến đi khỏi những ống dẫn khí đường kính dưới 1 mm, những ống mà ta gọi là các tiểu phế quản. Tiểu phế quản mà dẫn khí cho một tiểu thuỳ (tiểu thùy là đơn vị cơ sở của phổi, có đáy là hình đa giác hiện lên bề mặt phổi) được gọi là tiểu phế quản tiểu thuỳ. Một tiểu phế quản tiểu thùy đi vào mỗi tiểu thùy, chia ngay thành 6 tiểu phế quản tận; những tiểu phế quản tận lại chia thành các tiểu phế quản hô hấp. Các tiểu phế quản tận là những đường dẫn khí xa nhất được lót chỉ bằng thượng mô trụ đơn (các phế quản lớn hơn được lót bằng thượng mô trụ giả tầng có lông). Các tiểu phế quản hô hấp có một ít phế nang nhỏ tách ra trực tiếp từ thành của chúng và cuối cùng tận cùng bằng các ống phế nang; mỗi ống phế nang có thành mỏng tận cùng thành một phần phình hơn gọi là nhĩ; nhĩ dẫn tới các túi phế nang. Thành mỏng được lót bằng thượng mô vảy đơn của các ống phế nang, các nhĩ và các túi là nơi bám vào của các phế nang. Bao quanh các phế nang là mạng lưới mao mạch. Các khí trong máu và phế nang có thể khuyếch tán qua thành các mao mạch và phế nang. Nhìn một cách khái quát, có thể chia cây phế quản thành hai phần: phần gần lớn hơn là đường dẫn khí (từ thanh quản tới các tiểu phế quản tận); các ống và các khoang ở xa hơn tạo nên các vùng trao đổi hô hấp giữa khí trời và các mao mạch (các tiểu phế quản hô hấp, các ống phế nang, các túi phế nang và các phế nang).
Về cấu tạo, các đường dẫn khí được lót ở trong bằng thượng mô nằm trên một lá riêng bằng mô liên kết. Bên ngoài lá riêng là lớp dưới niêm mạc, cũng được cấu tạo bằng mô liên kết, vùi trong đó là cơ trơn, các tuyến, các mảnh sụn, các mạch máu, mô bạch huyết và thần kinh. Sụn có mặt từ khí quản đến các phế quản nhỏ nhất nhưng vắng mặt ở tiểu phế quản.
2.2.2. Sự phân nhánh của động mạch phổi
Có hai động mạch phổi phải và trái tách ra từ thân động mạch phổi. Động mạch phổi phải chạy ngang sang phải, qua rốn phổi, bắt chéo mặt trước phế quản chính phải ngay dưới phế quản thùy trên. Động mạch phổi trái nhỏ hơn và ngắn hơn, chạy chếch lên trên sang trái bắt chéo mặt trước phế quản chính trái ở phía trên phế quản thùy trên. Vào trong phổi, cả hai động mạch chạy xoắn quanh thân phế quản chính và cũng phân chia thành các nhánh thùy, các nhánh cho phân thùy rồi lại tiếp tục phân chia nhỏ dần cho tới mạng mao mạch quanh phế nang.
Hình 18.7. Các mạch chính của trung thất
2.2.3. Tĩnh mạch phổi
Các lưới mao mạch quanh phế nang tập trung dần để đổ vào các tĩnh mạch quanh tiểu thùy, các tĩnh mạch nhỏ hợp nên các tĩnh mạch lớn dần, cuối cùng tạo thành hai tĩnh mạch phổi trên và dưới ở mỗi bên và đổ vào tâm nhĩ trái.
2.2.4. Động mạch và tĩnh mạch phế quản
Động mạch nuôi dưỡng cho cho cây phế quản và mô phổi là các nhánh phế quản, nhánh của động mạch chủ ngực.
Tĩnh mạch phế quản. Các tĩnh mạch sâu dẫn máu từ trong phổi đổ vào tĩnh mạch phổi, còn các tĩnh mạch nông dẫn máu từ phế quản ngoài phổi và màng phổi tạng đổ vào tĩnh mạch đơn và bán đơn phụ.
2.2.5. Bạch huyết của phổi
Các mạch bạch huyết trong nhu mô phổi đổ vào các hạch bạch huyết phổi nằm gần những chỗ chia nhánh của phế quản, rồi từ đó đổ vào các hạch phế quản phổi nằm ở rốn phổi.
2.2.6. Thần kinh của phổi
Gồm những nhánh của đám rối phổi chạy theo phế quản chính, tạo thành một mạng lưới quây xung quanh phế quản, qua rốn phổi vào phổi chi phối cho các cơ, niêm mạc của phế quản và cho các phế nang.
2.3. Cuống phổi
Cuống phổi nối mặt trong của phổi với trung thất và được tạo nên bởi các thành phần đi vào hoặc ra khỏi phổi tại rốn phổi. Các thành phần đó là phế quản chính, động mạch phổi, động mạch phế quản, đám rối thần kinh tự chủ của phổi, các tĩnh mạch phổi, các tĩnh mạch phế quản, bạch mạch, các hạch bạch huyết phế quản – phổi và mô liên kết lỏng lẻo, tất cả được bao bọc bởi màng phổi. Phế quản chính, động mạch phổi và tĩnh mạch phổi là những thành phần trực tiếp tham gia vào chức năng hô hấp của phổi nên được gọi là cuống phổi chức phận. Các thành phần còn lại có vai trò nuôi dưỡng cho phổi và tạo nên cuống phổi dinh dưỡng.
Cuống phổi nằm ngang mức các thân đốt sống ngực V-VII. Cuống phổi phải nằm sau tĩnh mạch chủ trên và tâm nhĩ phải và dưới phần tận cùng của tĩnh mạch đơn. Cuống phổi trái nằm dưới cung động mạch chủ và trước động mạch chủ ngực. Các liên quan chung của cả hai cuống phổi là: ở trước, thần kinh hoành, động mạch và tĩnh mạch màng ngoài tim – hoành, và đám rối phổi trước; ở phía sau, thần kinh lang thang và đám rối phổi sau; ở dưới, dây chằng phổi.
Các cấu trúc chính của cả hai cuống phổi sắp xếp gần giống nhau (ở mức rốn phổi): tĩnh mạch phổi trên nằm trước, ngay sau đó là động mạch phổi và phế quản chính (động mạch phổi bên phải nằm trước phế quản chính, bên trái nằm trên), các mạch phế quản nằm sau cùng. Tĩnh mạch phổi dưới ở dưới phế quản chính và là cấu trúc thấp nhất của rốn phổi.
2.4. Màng phổi
Màng phổi là một bao thanh mạc kín bọc lấy phổi. Bao này gồm hai lá: màng phổi tạng và màng phổi thành, giữa hai lá là một khoang tiềm tàng gọi là ổ màng phổi. Bình thường hai lá của màng phổi áp sát nhau và chỉ tách xa nhau khi có dịch (tràn dịch màng phổi) hoặc khí (tràn khí màng phổi) tràn vào.
Màng phổi tạng là lá thanh mạc bao bọc và dính chặt vào nhu mô phổi, lách cả vào các khe gian thùy để bọc cả các mặt gian thuỳ của phổi. Ở quanh rốn phổi, màng phổi tạng quặt lại liên tiếp với màng phổi thành.
Màng phổi thành là phần màng phổi phủ mặt trong lồng ngực (phần sườn), mặt trên cơ hoành (phần hoành) và mặt bên của trung thất (phần trung thất). Phần màng phổi thành trùm lên đỉnh phổi là vòm màng phổi. Góc giữa các phần phần của màng phổi (tương ứng với các bờ phổi) được gọi là các ngách màng phổi: ngách sườn – hoành chạy dọc theo đoạn cong của bờ dưới phổi, nhưng xuống thấp hơn phổi và là nơi thấp nhất của ổ màng phổi; ngách sườn – trung thất chạy dọc bờ trước phổi; ngách hoành – trung thất chạy song song với đoạn thẳng của bờ dưới phổi.
Hình 18.8. Màng phổi
2.5. Đối chiếu của phổi và màng phổi trên lồng ngực
Đối chiếu của phổi và màng phổi trên lồng ngực thay đổi tùy theo từng người và ngay ở một người, nó cũng thay đổi theo nhịp hít vào hay thở ra. Một người trưởng thành có lồng ngực trung bình và thở bình thường có đối chiếu như dưới đây.
2.5.1. Đối chiếu của phổi
Đỉnh phổi. Điểm cao nhất của đỉnh phổi ngang mức đầu sau xương sườn I, nhô lên trên đầu trước xương sườn I độ 5 cm, trên xương đòn 3 cm và cách đường giữa 4 cm.
Bờ trước của phổi bắt đầu từ điểm cao nhất của đỉnh phổi đi chếch xuống dưới và vào trong bắt chéo khớp ức – sườn I, tới ngang mức khớp ức – sườn II thì vào sát đường giữa. Từ đó bờ trước phổi phải chạy xuống tới đầu trong của sụn sườn VI thì tiếp nối với bờ dưới. Bờ trước phổi trái giống bên phải tới đầu trong sụn sườn IV, từ đó bờ trước phổi trái chạy vòng ra ngoài, xuống dưới tới gần đầu ngoài của sụn sườn VI thì tiếp nối với bờ dưới.
Hình 18.9. Định khu của phổi và màng phổi lên lồng ngực
Bờ dưới của phổi bắt đầu từ chỗ tận hết của bờ trước chạy chếch xuống dưới ra ngoài và ra sau, bắt chéo khoang gian sườn VI ở đường giữa đòn, khoang gian sườn VII ở đường nách giữa, khoang gian sườn IX trên đường vai và tận hết ở đầu sau xương sườn XI. Giới hạn sau – trong của phổi (hay bờ sau) từ đầu sau xương sườn I chạy xuống bắt chéo các mỏm ngang đốt sống ngực II – XI.
Khe chếch bắt đầu từ đầu sau khoang gian sườn III chạy chếch xuống dưới, ra ngoài và ra trước để tận hết ở chỗ nối giữa xương sườn và sụn sườn VI.
Khe ngang tách từ khe chếch ở ngang mức khoang gian sườn IV trên đường nách, rồi chạy ngang ra trước tới phía trước sụn sườn IV.
2.5.2. Đối chiếu của màng phổi
Vòm màng phổi tương ứng với điểm cao nhất của đỉnh phổi.
Ngách sườn – trung thất ở bên phải giống đối chiếu của bờ trước phổi phải, còn ở bên trái giống bờ trước phổi trái cho tới đầu trong sụn sườn IV, từ đó ngách sườn trung thất bên trái lách vào gần đường giữa hơn, tới sụn sườn VI, cách đường giữa khoảng 2 cm, thì liên tiếp với ngách sườn hoành.
Ngách sườn – hoành bắt đầu từ chỗ tận hết của ngách sườn trung thất chạy chếch xuống dưới, ra ngoài và ra sau, bắt chéo xương sườn X ở đường nách giữa, xương sườn XI ở cách đường giữa 10 cm và tận hết ở khe giữa đốt sống ngực XII và đốt sống thắt lưng I.
2.6. Hình ảnh X quang của phổi
Chụp X quang lồng ngực ta thấy ở hai bên hình ảnh trong sáng của phổi quây lấy bóng mờ của tim ở giữa. Ở gần đỉnh phổi có bóng xương đòn cắt ngang chia thành 2 phần trên và dưới đòn.
Ở hai bên sát bóng tim có hai đám mờ sẫm, đó là rốn phổi. Từ rốn phổi tỏa ra phía ngoài những vết mờ nhạt dần, đó là các thành phần của cuống phổi đi vào phổi. Hai bên phía ngoài đáy phổi thấy hình một cung nhọn, đó là ngách sườn – hoành của màng phổi.
Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC
Tham gia nhóm zalo: Tài Liệu Y Học Tổng Hợp
Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY