Bài 10
TĨNH MẠCH ĐẦU CỔ VÀ THẦN KINH ĐẦU CỔ
MỤC TIÊU1. Mô tả được các tĩnh mạch dẫn lưu máu cho đầu – cổ và các thần kinh sống chi phối cho đầu – cổ. 2. Nêu được các liên hệ chức năng và lâm sàng thích hợp. |
1. CÁC TĨNH MẠCH CỦA ĐẦU CỔ
1.1. Các tĩnh mạch nông
Máu ở phần trước da đầu và ở mặt đổ vào tĩnh mạch mặt; máu ở phần bên da đầu và phần sâu của mặt đổ vào tĩnh mạch sau hàm dưới; máu ở phần sau da đầu đổ vào các tĩnh mạch chẩm và tai sau.
Hình 10.1. Các tĩnh mạch nông của cổ
1.1.1. Tĩnh mạch mặt
Bắt đầu từ tĩnh mạch góc; tĩnh mạch góc được tạo nên ở góc mắt trong bởi sự hợp lại của tĩnh mạch trên ròng rọc và tĩnh mạch trên ổ mắt. Tĩnh mạch chạy xuống qua mặt, ở sau động mạch mặt, tới bờ dưới thân xương hàm dưới. Tiếp đó nó bắt chéo mặt nông của tuyến dưới hàm và tiếp nhận nhánh trước của tĩnh mạch sau hàm dưới ở ngang góc hàm dưới. Cuối cùng, nó đổ vào tĩnh mạch cảnh trong ở ngang mức sừng lớn xương móng. Trên đường đi tĩnh mạch mặt nhận nhiều nhánh bên: các tĩnh mạch mí trên và dưới, các tĩnh mạch mũi ngoài, tĩnh mạch môi trên, các tĩnh mạch môi dưới, tĩnh mạch mặt sâu, các tĩnh mạch mang tai, tĩnh mạch khẩu cái ngoài và tĩnh mạch dưới cằm. Tĩnh mạch mặt là con đường lan truyền nhiễm trùng từ vùng mặt vào xoang tĩnh mạch sọ vì tĩnh mạch trên ổ mắt nối với tĩnh mạch mắt trên (đổ vào xoang tĩnh mạch hang) và giữa hai hệ thống này không có van.
Hình 10.2. Các tĩnh mạch nông của đầu
1.1.2. Tĩnh mạch sau hàm dưới
Do tĩnh mạch thái dương nông và các tĩnh mạch hàm trên hợp nên ở trong mô tuyến mang tai; nó đi xuống tới góc hàm thì chia thành 2 nhánh: nhánh trước đổ vào tĩnh mạch mặt, nhánh sau cùng tĩnh mạch tại sau tạo nên tĩnh mạch cảnh ngoài ở sau góc hàm.
1.1.3. Tĩnh mạch cảnh ngoài
Bắt đầu ở ngay sau góc xương hàm dưới do sự hợp lại của tĩnh mạch tai sau với nhánh sau của tĩnh mạch sau hàm dưới. Nó chạy xuống bắt chéo mặt nông của cơ ức – đòn – chũm (nhiều khi nhìn thấy ngay dưới da) và khi tới ngay trên xương đòn, trong tam giác cổ sau, nó xuyên qua mạc cổ rồi đổ vào tĩnh mạch dưới đòn. Tĩnh mạch chạy theo một một đường kẻ từ góc hàm tới điểm giữa xương đòn. Trên đường đi tĩnh mạch cảnh ngoài nhận thêm các nhánh sau đây: tĩnh mạch cảnh trước, tĩnh mạch trên vai và các tĩnh mạch ngang cổ.
1.2. Các tĩnh mạch sâu
1.2.1. Các tĩnh mạch của não và các xoang màng cứng
1.2.1.1. Các tĩnh mạch não
Các tĩnh mạch của não bao gồm các tĩnh mạch của đại não, các tĩnh mạch của tiểu não và các tĩnh mạch của thân não. Chúng xuyên qua màng nhện và lớp trong của màng cứng để đổ vào các xoang tĩnh mạch màng cứng.
Hình 10.3. Các tĩnh mạch não nông
Các tĩnh mạch đại não: Các tĩnh mạch đại não bao gồm các tĩnh mạch não nông và các tĩnh mạch não sâu.
– Các tĩnh mạch não nông (não ngoài) bao gồm các tĩnh mạch não trên, tĩnh mạch não giữa nông và các tĩnh mạch não dưới. Các tĩnh mạch não trên là 8 – 12 tĩnh mạch dẫn lưu máu cho mặt trên – ngoài và mặt trong bán cầu. Chúng chạy lên trong các rãnh não tới bờ trên – trong của bán cầu và đổ vào xoang dọc trên. Tĩnh mạch não giữa nông bắt đầu ở mặt ngoài bán cầu và chạy theo rãnh bên để tận cùng ở xoang hang. Nó nối với xoang dọc trên qua tĩnh mạch nối trên và với xoang ngang qua tĩnh mạch nối dưới. Các tĩnh mạch não dưới bao gồm: các tĩnh mạch trên mặt ổ mắt của thuỳ trán đổ về các tĩnh mạch não trên, rồi về xoang dọc trên và các tĩnh mạch của thuỳ thái dương dẫn máu về các xoang hang, đá trên và đá dưới.
– Các tĩnh mạch não sâu bao gồm tĩnh mạch nền và tĩnh mạch não lớn. Tĩnh mạch nền bắt đầu ở chất thủng trước bởi sự hợp lại của: một tĩnh mạch não trước đi kèm động mạch não trước; một tĩnh mạch não giữa sâu tiếp nhận các nhánh từ thuỳ đảo và các hồi liền kề và chạy trong rãnh não bên và các tĩnh mạch đồi – vân dưới thoát ra ở chất thủng trước. Tĩnh mạch nền chạy ra sau quanh cuống đại não tới đổ vào tĩnh mạch não lớn. Tĩnh mạch não lớn được hình thành từ sự hợp lại của hai tĩnh mạch não trong. Nó chạy một đoạn ngắn trên đường giữa quanh lồi thể trai, tiếp nhận hai tĩnh mạch nền trên đường đi và đổ vào đầu trước của xoang thẳng. Tĩnh mạch não trong được hình thành ở gần lỗ gian não thất chủ yếu bởi các tĩnh mạch mạch mạc và các tĩnh mạch đồi – vân; nó dẫn lưu cho các vùng sâu của bán cầu.
Các tĩnh mạch tiểu não: Các tĩnh mạch tiểu não chạy trên bề mặt tiểu não và bao gồm các nhóm tĩnh mạch tiểu não trên và dưới. Nhóm trên bao gồm tĩnh mạch trên của nhộng tiểu não và các tĩnh mạch trên của bán cầu tiểu não. Một số chạy về phía trước – trong để đổ vào xoang thẳng hoặc tĩnh mạch não lớn, một số chạy sang bên đổ vào các xoang ngang và đá trên. Nhóm dưới bao gồm tĩnh mạch dưới của nhộng tiểu não và các tĩnh mạch dưới của bán cầu tiểu não; các tĩnh mạch này đổ về xoang thẳng, xoang sigma, xoang đá dưới và xoang chẩm.
Các tĩnh mạch của thân não đổ về các tĩnh mạch não khác hoặc về các xoang tĩnh mạch.
1.2.1.2. Các xoang tĩnh mạch màng cứng
Các xoang màng cứng là những tĩnh mạch đặc biệt, thành của xoang được tạo nên bởi ngoại cốt mạc của xương sọ và màng não cứng, bên trong được lót một lớp nội mô. Các xoang màng cứng không có van, thành xoang không có lớp giữa chứa cơ trơn như các tĩnh mạch khác. Máu trong các xoang cuối cùng đều đổ về tĩnh mạch cảnh trong.
Có thể chia các xoang màng cứng thành hai nhóm:
– Các xoang của nhóm sau – trên:
+ Nhóm sau – trên (ở phần trên và sau của hộp sọ) gồm xoang dọc trên, xoang dọc dưới, xoang thẳng và xoang chẩm dẫn máu đến hội lưu các xoang (nằm ở ụ chẩm trong); xoang ngang và xoang sigma (hai xoang chạy kế tiếp nhau) dẫn máu từ hội lưu tới đầu trên tĩnh mạch cảnh trong.
+ Xoang dọc trên: Xoang này bắt đầu ở gần mào gà. Nó chạy ra sau dọc theo bờ lồi (bờ dính) của liềm đại não, tạo nên một rãnh dọc ở mặt trong xương trán, các bờ kề nhau của hai xương đỉnh và phần trai xương chẩm. Ở gần ụ chẩm trong, nó thường lệch sang phải và chạy tiếp như là xoang ngang phải. Mặt trong của xoang dọc trên có lỗ đổ vào của các tĩnh mạch não trên và có những chỗ nhô vào của các hạt màng nhện. Xoang thông ở mỗi bên với khoảng ba hồ tĩnh mạch.
+ Hội lưu các xoang: Hội lưu là nơi thông nối nhau của xoang dọc trên với xoang thẳng, xoang chẩm và các xoang ngang ở hai bên. Trên thực tế nó thường là đầu sau giãn rộng của xoang dọc trên và thường nằm ở sườn phải của ụ chẩm trong. Các xoang của nhóm sau – trên có thể không thông nối nhau ở nhiều trường hợp.
Hình 10.4. Các xoang tĩnh mạch màng não cứng thiết đồ đứng dọc
+ Xoang chẩm: Là xoang nhỏ nhất của nhóm, xoang chẩm nằm trong bờ bám của liềm tiểu não. Nó bắt đầu ở gần bờ sau của lỗ lớn xương chẩm, nơi nó tiếp nối với đám rối tĩnh mạch đốt sống trong và tận cùng ở hội lưu các xoang.
+ Xoang dọc dưới: Xoang này nằm ở nửa sau hay 2/3 sau của bờ tự do của liềm đại não và đổ vào xoang thẳng. Nó tiếp nhận các tĩnh mạch từ liềm đại não và từ mặt trong của các bán cầu.
+ Xoang thẳng: Xoang thẳng nằm ở nơi tiếp nối của liềm đại não với lều tiểu não. Nó chạy tiếp theo xoang dọc dưới và liên tiếp với xoang ngang bên trái hoặc đổ vào hội lưu các xoang. Các nhánh của xoang thẳng bao gồm một số tĩnh mạch não trên và tĩnh mạch não lớn.
+ Các xoang ngang: Xoang ngang bắt đầu ở ụ chẩm trong. Mỗi xoang uốn cong về phía trước – bên tới phần sau – ngoài của phần đá xương thái dương thì hướng xuống dưới và trở thành xoang sigma. Nó nằm trong bờ bám của lều tiểu não vào phần trai xương chẩm. Trên đường đi, xoang ngang tiếp nhận các tĩnh mạch não dưới, tiểu não dưới, lõi xốp và nối dưới. Xoang đá trên đổ vào xoang ngang ở chỗ mà xoang ngang liên tiếp với xoang sigma.
+ Các xoang sigma: Mỗi xoang sigma là sự tiếp tục của một xoang ngang, bắt đầu ở nơi xoang ngang rời khỏi lều tiểu não. Xoang sigma uốn cong về phía dưới – trong trong một rãnh ở mặt trong mỏm chũm xương thái dương, rồi hướng ra trước, đi qua phần sau của lỗ tĩnh mạch cảnh và đổ vào hành trên của tĩnh mạch cảnh trong. Ở phía trước, chỉ có một mảnh xương mỏng ngăn cách phần trên của xoang sigma với hang và các tiểu xoang chũm. Xoang sigma tiếp nối với các tĩnh mạch quanh sọ qua đường các tĩnh mạch liên lạc chũm và lồi cầu.
– Các xoang của nhóm trước – dưới:
+ Nhóm trước – dưới (ở nền sọ) bao gồm: các tĩnh mạch mắt và xoang bướm – đỉnh dẫn máu tới xoang hang (nằm ở mặt bên thân xương bướm); xoang đá trên dẫn máu từ xoang hang tới phần cuối xoang ngang và xoang đá dưới dẫn máu từ xoang hang tới đầu trên tĩnh mạch cảnh trong. Hai xoang hang nối với nhau bằng các xoang gian hang.
+ Các xoang hang: Mỗi xoang hang nằm ở một bên của thân xương bướm, đi từ khe ổ mắt trên tới đỉnh phần đá xương thái dương, với một chiều dài trung bình 2 cm và rộng 1 cm. Động mạch cảnh trong và thần kinh giạng (nằm ở dưới – ngoài động mạch) chạy ra trước qua xoang. Các thần kinh vận nhãn và ròng rọc cùng nhánh mắt và nhánh hàm trên của thần kinh sinh ba đi ở thành ngoài của xoang. Các nhánh đi đến xoang hang bao gồm: các tĩnh mạch mắt (trên và dưới), tĩnh mạch não giữa nông, các tĩnh mạch não dưới và xoang bướm – đỉnh. Máu được dẫn lưu khỏi xoang hang nhờ: xoang đá trên dẫn máu xoang hang tới xoang ngang, xoang đá dưới và đám rối tĩnh mạch quanh động mạch cảnh trong dẫn máu xoang hang tới tĩnh mạch cảnh trong. Xoang hang nối tiếp với đám rối tĩnh mạch chân bướm qua đám rối tĩnh mạch lỗ bầu dục, với tĩnh mạch mặt qua tĩnh mạch mắt trên. Hai xoang hang tiếp nối với nhau qua các xoang gian hang trước và sau và qua đám rối nền. Tất cả các nhánh tiếp nối đều không có van vì thế mà hướng của dòng máu có thể đảo ngược.
+ Các tĩnh mạc mắt: Tĩnh mạch mắt trên bắt đầu ở sau phần trong của mí trên từ hai nhánh tiếp nối ở trước với tĩnh mạch mặt và tĩnh mạch trên ổ mắt. Nó đi qua khe ổ mắt trên và đổ vào xoang hang. Tĩnh mạch mắt dưới bắt đầu từ một mạng tĩnh mạch ở vùng trong của sàn ổ mắt. Nó chạy ra sau và thường hợp với tĩnh mạch mắt trên nhưng có thể đổ trực tiếp vào xoang hang. Nó tiếp nối qua các nhánh nhỏ với đám rối tĩnh mạch chân bướm.
Hình 10.5. Các xoang tĩnh mạch màng não cứng thiết đồ ngang
+ Các xoang – bướm đỉnh: Xoang bướm – đỉnh nằm dưới màng xương của cánh nhỏ xương bướm, ở gần bờ sau của cánh nhỏ. Nó chạy vào trong đổ vào đầu trước xoang hang; trên đường đi, nó tiếp nhận các tĩnh mạch nhỏ từ vùng màng não cứng liền kề và đôi khi cả nhánh trán của tĩnh mạch màng não giữa.
+ Các xoang gian hang trước và sau: Các xoang gian hang trước và sau tiếp nối các xoang hang với nhau. Chúng đi trong các bờ bám trước và sau của hoành yên.
+ Các xoang đá trên: Xoang đá trên là một xoang nhỏ dẫn máu từ xoang hàng tới xoang ngang. Nó rời khỏi phần sau – trên của xoang hang, chạy về phía sau – ngoài trong bờ bám của lều tiểu não vào bờ trên phần đá xương thái dương rồi tận cùng ở nơi xoang ngang uốn cong xuống để trở thành xoang sigma. Xoang đá trên tiếp nhận các tĩnh mạch tiểu não, não dưới và nhĩ.
+ Các xoang đá dưới: Xoang đá dưới bắt đầu ở phần sau – dưới xoang hang và chạy về phía sau trong rãnh giữa phần đá xương thái dương và phần nền xương chẩm. Nó đi qua phần trước lỗ tĩnh mạch cảnh và tận cùng ở hành trên tĩnh mạch cảnh trong. Nó tiếp nhận các tĩnh mạch mê đạo.
+ Đám rối nền: Đây là một đám rối của các tĩnh mạch tiếp nối với nhau nằm giữa các lớp của màng não cứng phủ dốc nền. Nó kết nối các xoang đá dưới với nhau và tiếp nối với đám rối tĩnh mạch đốt sống trong.
+ Liên hệ lâm sàng của các xoang màng cứng: máu từ các xoang màng cứng đổ về tĩnh mạch cảnh trong, nhưng các xoang này cũng có những tiếp nối với các tĩnh mạch ở ngoài sọ, trong đó sự tiếp nối với đám rối tĩnh mạch đốt sống là một con đường lan truyền của ung thư từ bụng và ngực vào sọ. Những tĩnh mạch dẫn lưu máu cho các tạng bụng và ngực đổ về các tĩnh mạch chủ nhưng cũng tiếp nối với đám rối tĩnh mạch đốt sống. Khi có ung thư, chẳng hạn như ung thư tuyến tiền liệt, tế bào ung thư có thể đi tới đám rối tĩnh mạch đốt sống rồi đi tới các xoang tĩnh mạch sọ qua các tiếp nối tĩnh mạch.
1.2.2. Các tĩnh mạch sâu ở cổ
Tĩnh mạch cảnh trong thu thập máu từ sọ, não, cổ và phần nông của mặt. Bắt đầu từ hố tĩnh mạch cảnh (nơi nó liên tiếp với xoang sigma), tĩnh mạch đi xuống dưới trong bao cảnh dọc bờ ngoài động mạch cảnh trong và động mạch cảnh chung, tới sau đầu ức của xương đòn thì hợp với tĩnh mạch dưới đòn tạo nên tĩnh mạch cánh tay đầu. Đầu trên của tĩnh mạch cảnh trong phình to thành hành trên, vốn nằm ở dưới phần sau của sàn hòm nhĩ. Đoạn gần đầu dưới của nó cũng phình ra thành hành dưới. Các liên quan của tĩnh mạch cảnh trong giống với liên quan của các động mạch cảnh trong và cảnh chung. Các hạch bạch huyết cổ sâu nằm dọc theo tĩnh mạch cảnh trong, nhất là trên mặt nông của nó. Hình chiếu của tĩnh mạch cảnh trong lên bề mặt là đường kẻ nối dái tai với đầu ức của xương đòn; hành dưới của nó nằm trong hố trên đòn nhỏ, giữa các đầu ức và đòn của cơ ức – đòn – chũm, nơi ta có thể chọc kim vào tĩnh mạch. Các nhánh bên của tĩnh mạch cảnh trong bao gồm: xoang đá dưới, các tĩnh mạch hầu (từ đám rối hầu), các tĩnh mạch màng não, tĩnh mạch mặt, tĩnh mạch lưỡi, tĩnh mạch giáp trên, tĩnh mạch giáp giữa, tĩnh mạch ức – đòn – chũm, tĩnh mạch thanh quản trên.
Tĩnh mạch đốt sống được các đám rối tĩnh mạch dưới chẩm tạo nên rồi cùng động mạch đi xuống đổ vào tĩnh mạch cánh tay – đầu.
Tĩnh mạch cổ sâu đi kèm với động mạch cổ sâu rồi đổ vào tĩnh mạch đốt sống.
Tĩnh mạch giáp dưới từ tuyến giáp đi xuống đổ vào tĩnh mạch cánh tay – đầu trái.
2. THẦN KINH CỦA ĐẦU CỔ VÀ ĐÁM RỐI CỔ
Thần kinh chi phối cho đầu – cổ là các thần kinh sọ và đám rối cổ. Các thần kinh sọ được trình bày ở bài 33, bài này chỉ trình bày về đám rối cổ.
2.1. Cấu tạo
Đám rối cổ được tạo nên bởi nhánh trước của bốn thần kinh sống cổ đầu tiên. Các nhánh trước này liên kết với nhau thành các quai nối nằm trước cơ nâng vai và cơ bậc thang giữa, sau tĩnh mạch cảnh trong và cơ ức – đòn – chũm. Đám rối cổ tách ra các nhánh nông đi tới da và các nhánh sâu; các nhánh sâu bao gồm các nhánh cơ và các nhánh nối.
2.2. Các nhánh nông
Hình 10.6. Sơ đồ đám rối cổ
Thần kinh hạ thiệt được vẽ bằng nét đứt và các nhánh cơ bằng các đường đen đậm
Thần kinh chẩm nhỏ (C2) uốn quanh thần kinh phụ và đi lên dọc bờ sau cơ ức – đòn – chũm, phân nhánh vào da phần bên vùng chẩm và da mặt trong loa tai.
Thần kinh tai lớn (C2-C3) đi lên, bắt chéo qua mặt nông cơ ức – đòn – chũm cùng tĩnh mạch cảnh ngoài, tới ngang đầu dưới tuyến mang tai thì chia thành các nhánh trước và sau. Nhánh trước phân phối vào vùng da phủ tuyến mang tai, nhánh sau vào vùng da phủ mỏm chũm và cả hai mặt của loa tai.
Thần kinh ngang cổ (C2-C3) uốn quanh gần điểm giữa bờ sau cơ ức – đòn – chũm và chạy ra trước ngang qua cơ, dưới cơ bám da cổ, rồi chia thành các nhánh trên và các nhánh dưới, phân phối vào da phủ các mặt trước và bên của cổ, từ thân xương hàm dưới tới xương ức.
Các thần kinh trên đòn (C3-C4): Sau khi lộ ra ở bờ sau cơ ức – đòn – chũm từ một thân chung, các thần kinh này đi xuống ngang qua tam giác cổ sau, ở dưới cơ bám da cổ và mạc cổ, tới thành ngực trước và vùng vai. Thần kinh trên đòn trong bắt chéo qua xương đòn và đầu ức cơ ức – đòn – chũm để phân phối xa tới tận đường giữa và xuống thấp tới tận xương sườn II. Thần kinh trên đòn trung gian bắt chéo đoạn giữa xương đòn để phân phối vào da phủ trên cơ ngực lớn và cơ delta tới tận ngang mức xương sườn II. Thần kinh trên đòn ngoài bắt chéo đầu ngoài xương đòn và phân phối vào da phủ trên khớp vai và nửa trên cơ delta.
Hình 10.7. Đám rối cổ tại vùng cổ và liên quan
2.3. Các nhánh sâu
Các nhánh sâu của đám rối cổ bao gồm các nhánh nối và các nhánh cơ.
Các nhánh nối: Đám rối cổ tiếp nối với các thần kinh sọ X, XI, XII và thân giao cảm cổ. Quai nối giữa nhánh trước các thần kinh cổ I và II tách ra một nhánh nối với thần kinh hạ thiệt. Những sợi trong nhánh này sau đó rời khỏi thần kinh hạ thiệt trong nhánh màng não, rễ trên quai cổ và các thần kinh tới cơ giáp – móng và cơ cằm móng.
Các nhánh cơ: Các nhánh cơ của đám rối cổ bao gồm hai nhóm. Nhóm trong gồm các nhánh đi tới cơ thẳng đầu bên (CI), cơ thẳng đầu trước (CI-CII), cơ dài đầu (CI-CIII), cơ dài cổ (CII-CIV), rễ dưới của quai cổ (CII-CIII) và thần kinh hoành (CIII-CV). Nhóm ngoài gồm các nhánh đi tới cơ ức – đòn – chũm (CII-CIV), cơ thang (CII), cơ nâng vai (CIII-CIV) và cơ bậc thang giữa (CIII-CIV).
Rễ dưới của quai cổ: Rễ này được tạo nên bởi sự hợp lại của một nhánh của CII và một nhánh của CIII. Nó đi xuống trên bờ ngoài tĩnh mạch cảnh trong rồi nối với rễ trên ở trước động mạch cảnh chung tạo nên quai cổ. Quai cổ phân nhánh vào tất cả các cơ dưới móng, trừ cơ giáp – móng.
Thần kinh hoành: Thần kinh hoành chứa các sợi vận động và cảm giác bản thể cho cơ hoành và cả các sợi cảm giác cho màng phổi và phúc mạc phủ các mặt của cơ hoành. Nó được tạo nên ở bờ ngoài cơ bậc thang trước bởi sự hợp lại của 3 nhánh tách ra từ nhánh trước các thần kinh cổ III, IV và V. Nó chạy thẳng đứng xuống dưới, bắt chéo mặt trước cơ bậc thang trước (từ bờ ngoài tới bờ trong) ở sau lá trước sống của mạc cổ, rồi lách giữa động mạch và tĩnh mạch dưới đòn đi vào ngực. Trong ngực, nó đi xuống ở trước cuống phổi, giữa ngoại tâm mạc sợi và màng phổi trung thất. Ở trung thất trên, thần kinh hoành phải đi ở ngoài tĩnh mạch cánh tay đầu phải và tĩnh mạch chủ trên, thần kinh hoành trái đi trong rãnh giữa các động mạch cảnh chung và dưới đòn trái, sau tĩnh mạch cánh tay đầu trái.
Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC
Tham gia nhóm zalo: Tài Liệu Y Học Tổng Hợp
Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY