Bài 9
ĐỘNG MẠCH DƯỚI ĐÒN VÀ CÁC ĐỘNG MẠCH CẢNH
MỤC TIÊU1. Mô tả được các động mạch lớn cấp máu cho đầu – cổ – chi trên và các nhánh chính của chúng. 2. Nêu được các liên hệ chức năng và lâm sàng thích hợp. |
Đầu – cổ được cấp máu chủ yếu bởi các động mạch cảnh và một phần do động mạch dưới đòn. Động mạch cảnh chung ở mỗi bên chia thành các động mạch cảnh trong và ngoài.
1. ĐỘNG MẠCH CẢNH CHUNG
1.1. Nguyên uỷ
Động mạch cảnh chung ở hai bên có nguyên uỷ và đường đi khác nhau: động mạch cảnh chung phải tách ra từ thân động mạch cánh tay đầu, ở sau khớp ức – đòn phải; động mạch cảnh chung trái là nhánh của cung động mạch chủ.
1.2. Đường đi và tận cùng
Động mạch cảnh chung trái chạy lên một đoạn ở trong ngực, tới nền cổ thì tiếp tục đi lên ở cổ giống như động mạch cảnh chung phải. Ở cổ, các động mạch cảnh chung đi lên dọc ở hai bên thực quản và hầu, tới ngang bờ trên sụn giáp thì tận cùng bằng cách chia đôi thành động mạch cảnh ngoài và động mạch cảnh trong. Chỗ chẽ đối của động mạch cảnh chung và phần đầu động mạch cảnh trong hơi phình rộng và được gọi là xoang cảnh; tại đây có các bộ phận nhận cảm huyết áp. Cũng tại chỗ chẽ đôi động mạch có tiểu thể cảnh – nơi có bộ phận nhận cảm nồng độ khí carbonic máu. Thông tin về huyết áp và nồng độ các chất khí được thần kinh IX báo về các trung tâm tim – mạch và hô hấp ở hành não để các trung tâm này có những đáp ứng thích hợp.
1.3. Liên quan
Ở cổ, tĩnh mạch cảnh trong đi sát bên ngoài động mạch cảnh chung, thần kinh X đi ở sau, trong góc giữa động mạch và tĩnh mạch; cả ba thành phần này được bọc chung trong một bao mạc gọi là bao cảnh. Ở trong bao cảnh là các tạng cổ như hầu và thực quản, khí quản và thanh quản, thần kinh thanh quản quặt ngược và thuỳ bên tuyến giáp; ở phía sau là mỏm ngang các đốt sống cổ, các cơ trước sống và thân giao cảm cổ; ở phía trước – ngoài là cơ ức – đòn – chũm và các cơ dưới móng, trong đó cơ vai – móng bắt chéo trước bao cảnh.
Đoạn ngực của động mạch cảnh chung trái chạy lên ở trước rồi ở bên trái khí quản. Nó nằm trước đoạn ngực của động mạch dưới đòn trái, sau thân tĩnh mạch cánh tay đầu trái và trong màng phổi trung thất bên trái.
Hình 9.1. Các động mạch của đầu và cổ
2. ĐỘNG MẠCH CẢNH NGOÀI
2.1. Đường đi, tận cùng và liên quan
Từ xoang cảnh, động mạch cảnh ngoài chạy lên trên và ra ngoài qua hai vùng, lúc đầu qua vùng tam giác cảnh rồi bắt chéo mặt sâu bụng sau cơ hai bụng đi vào vùng mang tai. Khi tới sau cổ lồi cầu xương hàm dưới, nó tận cùng bằng hai nhánh là động mạch thái dương nông và động mạch hàm trên.
Ba cạnh giới hạn nên tam giác cảnh là cơ ức – đòn – chũm, bụng sau cơ hai bụng và bụng trên cơ vai – móng. Đoạn đầu của động mạch cảnh trong và đoạn cuối của động mạch cảnh chung cũng nằm trong tam giác này; ở trong tam giác cảnh và ở gần nguyên uỷ, động mạch cảnh ngoài ở trước và trong hơn so với động mạch cảnh trong.
Trong vùng mang tai, lúc đầu động mạch đi ở mặt trong tuyến mang tai rồi chui vào đi trong tuyến. Ở đoạn này, động mạch cảnh ngoài cách động mạch cảnh trong ở phía sau bởi mỏm trâm và các cơ trâm. Ở trong tuyến mang tai, động mạch cảnh ngoài là thành phần nằm sâu nhất, ở nông hơn là tĩnh mạch sau hàm dưới và ở nông nhất là thần kinh mặt và các nhánh của nó.
2.2. Phân nhánh
Các nhánh bên: Động mạch cảnh ngoài tách ra các nhánh bên mang tên những vùng do chúng cấp máu: động mạch giáp trên cấp máu cho tuyến giáp, tiếp nối với động mạch giáp dưới (nhánh của động mạch dưới đòn); động mạch lưỡi cấp máu cho lưỡi và sàn miệng; động mạch mặt bắt chéo xương hàm dưới ở trước góc hàm (nơi có thể sờ thấy mạch đập) để đi lên cấp máu cho mặt và tiếp nối với động mạch mắt (nhánh của động mạch cảnh trong) ở góc mắt trong; động mạch chẩm cấp máu cho da đầu vùng chẩm, tiếp nối với động mạch cổ sâu (nhánh của động mạch dưới đòn); động mạch tai sau cấp máu cho vùng da đầu sau tai; và động mạch hầu lên cấp máu cho thành hầu.
Các nhánh tận: Động mạch thái dương nông tiếp tục đi lên, bắt chéo mỏm gò má xương thái dương ở trước loa tai (nơi có thể sờ thấy mạch đập) và cấp máu cho da đầu các vùng trán, đỉnh và thái dương. Động mạch hàm trên tách ra nhiều nhánh cấp máu cho các vùng sâu của mặt như các cơ nhai, xương hàm trên, vòm miệng, xương hàm dưới, ổ mũi, màng não…
Các nhánh của động mạch cảnh ngoài ở hai bên tiếp nối nhiều với nhau. Khi thắt động mạch cảnh chung, máu từ động mạch cảnh ngoài bên đối diện đi qua các chỗ tiếp nối sang các nhánh của động mạch cảnh ngoài ở bên có động mạch cảnh chung bị thắt rồi chảy ngược tới chỗ chẽ đôi của động mạch cảnh chung để vào động mạch cảnh trong. Đây là lí do khiến thắt động mạch cảnh chung ít nguy hiểm hơn thắt động mạch cảnh trong.
3. ĐỘNG MẠCH CẢNH TRONG
3.1. Đường đi, liên quan và tận cùng
Từ xoang cảnh, động mạch cảnh trong đi qua 4 đoạn trước khi tách ra các động mạch cấp máu cho đại não. Lúc đầu, nó cùng tĩnh mạch cảnh trong (ở ngoài) đi lên ở cổ (đoạn cổ); phần dưới của đoạn cổ nằm trong tam giác cảnh cùng động mạch cảnh ngoài, phần trên ngăn cách với động mạch cảnh ngoài bởi các cơ trâm và mỏm trâm. Tiếp đó, động mạch đi qua ống động mạch cảnh của xương thái dương (ở trước hòm nhĩ) để chui vào trong sọ (đoạn đá). Ra khỏi ống động mạch cảnh, động mạch đi ra trước, chui vào trong xoang tĩnh mạch hang rồi uốn cong lên trên chui ra khỏi xoang ở bờ trong của mỏm yên trước (đoạn xoang hang). Cuối cùng, động mạch chạy ra sau ở dưới mặt dưới của đại não (đoạn não) rồi tận cùng ở chất thủng trước bằng động mạch não trước và động mạch não giữa.
3.2. Phân nhánh
Các nhánh tận của động mạch cảnh trong cấp máu cho hầu hết bề mặt bán cầu đại não (vỏ não): động mạch não trước cấp máu cho gần hết mặt trong bán cầu; động mạch não giữa cấp máu cho gần hết mặt ngoài bán cầu; cả hai động mạch này còn cấp máu cho phần mặt dưới bán cầu nằm trước rãnh bên và cho các nhánh xuyên vào trong bán cầu (nhánh trung tâm).
Ba đoạn cuối của động mạch cảnh trong tách ra nhiều nhánh bên: các nhánh đi vào hòm nhĩ (ở đoạn đá), các nhánh cho tuyến yên (ở đoạn xoang hang), động mạch thông sau, động mạch mạch mạc trước và động mạch mắt (ở đoạn não). Động mạch mắt là nhánh bên lớn nhất. Nó đi qua ống thị giác vào ổ mắt phân nhánh cấp máu cho: nhãn cầu và các cấu trúc có liên quan, da đầu vùng trán – đỉnh, và ổ mũi; nó tiếp nối với động mạch mặt (của động mạch cảnh ngoài) tại góc mắt trong.
Hình 9.2. Sơ đồ động mạch cảnh
4. ĐỘNG MẠCH DƯỚI ĐÒN
Động mạch dưới đòn chủ yếu đóng vai trò dẫn máu tới các động mạch của chi trên nhưng các nhánh bên của nó cấp máu cho nhiều vùng khác nhau: vùng vai, vùng ngực – bụng, vùng cổ và đặc biệt là não – tuỷ.
Hình 9.3. Sơ đồ động mạch dưới đòn
4.1. Nguyên uỷ, đường đi – liên quan và tận cùng
Động mạch dưới đòn ở hai bên có nguyên uỷ, độ dài đường đi và liên quan khác nhau.
Động mạch dưới đòn phải tách ra từ động mạch cánh tay – đầu ở sau khớp ức – đòn phải. Từ đó, nó đi ra ngoài qua nền cổ theo một đường cong lõm xuống dưới cho đến chỗ tiếp nối với động mạch nách ở sau điểm giữa xương đòn. Mặt sau của động mạch mạch tựa lên sườn trước của vùng đỉnh màng phổi; mặt trước bị cơ bậc thang trước bắt chéo. Ở trong chỗ bắt chéo của cơ bậc thang, mặt trước của động mạch bị thần kinh hoành, thần kinh lang thang và tĩnh mạch cảnh trong bắt chéo; trước các mạch và thần kinh này là cơ ức – đòn – chũm và phần trong xương đòn. Ở sau cơ bậc thang trước, động mạch tựa lên mặt trên xương sườn I và liên quan với các thân của đám rối cánh tay: các thân trên và giữa nằm trên động mạch, thân dưới nằm sau động mạch. Ở ngoài cơ bậc thang trước, chỉ có da và lá nông mạc cổ phủ trước động mạch. Tĩnh mạch dưới đòn nằm trước cơ bậc thang trước.
Động mạch dưới đòn trái tách ra từ cung động mạch chủ. Nó đi lên một đoạn trong ngực tới sau khớp ức – đòn trái thì tiếp tục đi qua nền cổ trái giống như động mạch dưới đòn phải. Đoạn ngực của động mạch nằm sau động mạch cảnh chung trái, ngoài thực quản, trong màng phổi trung thất trái và trước ống ngực. Liên quan đoạn cổ của động mạch dưới đòn trái cũng hơi khác ở bên phải: nó không bị thần kinh lang thang bắt chéo nhưng bị ống ngực bắt chéo.
Hình 9.4. Sơ đồ của các động mạch não và các thành phần cấu tạo nên nó: động mạch dưới đòn, động mạch cảnh,…
4.2. Nhánh bên và tiếp nối
Nhánh bên của động mạch dưới đòn cấp máu cho nhiều vùng và tiếp nối với nhiều động mạch khác những sự cấp máu cho não là quan trọng nhất.
Động mạch đốt sống tách ra từ mặt trên của động mạch dưới đòn. Nó chạy lên, chui qua lỗ mỏm ngang của 6 đốt sống cổ trên và lỗ lớn xương chẩm vào trong sọ. Ở trong sọ, nó chạy ra trước và lên trên qua mặt trước – bên của hành não và hợp với động mạch bên đối diện tạo nên động mạch nền ở giữa rãnh hành – cầu. Động mạch nền đi lên trong rãnh nền ở mặt trước cầu não và khi đi hết rãnh này thì chia thành hai động mạch não sau. Động mạch não sau cấp máu cho phần chẩm – thái dương của mặt dưới bán cầu đại não. Các nhánh bên của động mạch đốt sống cấp máu cho tuỷ sống (đoạn nằm trong cột sống cổ), hành não và tiểu não; nhánh bên của động mạch nền cấp máu cho cầu não, tại trong và tiểu não.
Động mạch ngực trong tách ra từ mặt dưới động mạch dưới đòn và chạy xuống dọc bờ bên xương ức. Nó tách ra sau động mạch gian sườn trước vào sâu khoang gian sườn trên rồi tận cùng bằng động mạch thượng vị trên và động mạch cơ – hoành. Động mạch thượng vị trên chui vào bao cơ thẳng bụng và tiếp nối với động mạch thượng vị dưới – nhánh của động mạch chậu ngoài; động mạch cơ – hoành chia thành 3 động mạch gian sườn trước cho 3 khoang gian sườn tiếp theo. Các nhánh gian sườn trước của động mạch ngực trong tiếp nối với động mạch ngực ngoài và động mạch ngực – cùng vai (nhánh ngực) của động mạch nách; chúng cũng tiếp nối với các nhánh gian sườn sau của động mạch chủ ngực.
Động mạch giáp – cổ là một thân động mạch ngắn. Nó chia thành ba nhánh: động mạch giáp dưới cấp máu cho tuyến giáp và tiếp nối với động mạch giáp trên (của động mạch cảnh ngoài); động mạch ngang cổ chạy ra ngoài cấp máu cho cơ thang; động mạch trên vai chạy tới mặt sau xương vai, tiếp nối với động mạch dưới vai của động mạch nách.
Động mạch sườn – cổ chia thành hai nhánh: động mạch cổ sâu chạy lên trong khối cơ dày của vùng gáy và tiếp nối với động mạch chẩm của động mạch cảnh ngoài; động mạch gian sườn trên tách ra thành 2 động mạch gian sườn sau cho 2 khoang gian sườn trên.
5. VÒNG ĐỘNG MẠCH NÃO
Ở mặt dưới của não, các nhánh cấp máu cho đại não của cả hai động mạch cảnh trong và của động mạch nền tiếp nối với nhau tạo nên vòng động mạch não. Vòng động mạch này được cấu tạo như sau:
Ở phía trước là 2 động mạch não trước – nhánh của 2 động mạch cảnh trong – nối với nhau qua động mạch thông trước.
Ở phía sau là 2 động mạch não sau, nhánh tận của động mạch nền. Mỗi động mạch não sau nối với động mạch cảnh trong cùng bên qua động mạch thông sau.
Hình 9.5. Các động mạch ở nền não
6. CÁC LIÊN HỆ CHỨC NĂNG VÀ LÂM SÀNG
Thắt các động mạch cảnh: Mặc dù các động mạch cấp máu cho não tiếp nối với nhau tại vòng động mạch não, việc thắt động mạch cảnh trong rất nguy hiểm vì dẫn tới thiếu máu não trầm trọng, mà các nơron của não dễ bị chết bởi tình trạng thiếu ôxy. Khi cần giảm lượng máu tuần hoàn qua các động mạch não, chẳng hạn như để điều trị các phình mạch não, có thể thắt động mạch cảnh chung. Trong trường hợp này máu sẽ đi qua các tiếp nối giữa của động mạch cảnh ngoài với động mạch cảnh ngoài bên đối diện và với động mạch dưới đòn; tiếp đó máu sẽ đi vào động mạch cảnh trong ở bên có động mạch cảnh chung bị thắt rồi đi vào não.
Vai trò của các tiếp nối của động mạch dưới đòn: Tuần hoàn bên qua các vòng tiếp nối của động mạch dưới đòn phát huy tác dụng trong một số tình huống có trở ngại tuần hoàn. Chẳng hạn khi có hẹp eo động mạch chủ (chỗ hẹp thường ở xa hơn vị trí nguyên uỷ của động mạch dưới đòn trái), máu từ động mạch dưới đòn sẽ đi qua các tiếp nối của nó với các động mạch gian sườn sau của động mạch chủ ngực và với động mạch thượng vị dưới của động mạch chậu ngoài để đi xuống cấp máu cho phần cơ thể ở dưới chỗ hẹp. Các động mạch gian sườn trở nên giãn to.
Cập nhật thông tin mới nhất về kiến thức y học và test y học tại facebook TEST Y HỌC
Tham gia nhóm zalo: Tài Liệu Y Học Tổng Hợp
Ôn thi nội trú, sau đại học Giải Phẫu TẠI ĐÂY